Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

Kỳ 4: Chúng ta có cần dạy về lòng yêu nước hay không?

Gần đây tôi thấy các bạn Dư luận viên và lều báo đang rao giảng về chủ nghĩa yêu nước về tinh thần dân tộc trên mạng nhiều quá, quả là những người yêu nước, họ yêu nước rất nhiều, yêu nước đến mức phải phát khóc lên mất. Họ bảo họ sẵn sàng hi sinh vì tồ quốc để đánh đuổi Trung Quốc xâm lược, sẵn sàng cầm sung. Quả thật nghe đến đây mà cảm thấy xót xa quá. Tôi không biết ai nghĩ thế nào, nhưng tôi nghĩ có lẽ lòng yêu nước của tôi nó bé nhỏ quá, nó không vĩ đại như các vị anh hùng này đâu. Tôi chỉ nhớ một câu mà đã được học từ hồi bé, một câu nói mà mỗi lần chào cờ tôi đều nhìn thấy: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không. Tất cả đều nhờ một phần công học tập của các cháu”. Đấy là hành động thực tế yêu nước nhất nhưng có lẽ đa phần chúng ta đã quên, chúng ta đã không còn nhớ đến nó.
Một ngày chiều tối tháng 6, tôi đi trên đường về, vẫn đi qua con đường Ngọc Hà quen thuộc, đi qua gần lăng Bác Hồ. Và rồi giữa dòng người qua lại trên đường phố, tôi bỗng thấy một cụ già, chắc cũng tầm 80 tuổi đang ngồi ăn xin ở giữa đường. Dòng người vẫn đi qua, cụ già vẫn ngồi ăn xin, dường như ai cũng vội vã và ít có ai chú ý đến sự tồn tại của ông cụ. Cảm thấy có gì đó bất nhẫn và tôi dừng lại, lấy trong ví ra ít tiền lẻ và đưa cho cụ. Thật ngạc nhiên câu đầu tiên tôi nghe được là gì: “Ông cám ơn nhiều lắm, cám ơn thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh nhiều lắm vì đã thương xót ông, ông bị điếc không nghe thầy gì cả đâu”. Nghe đến đây bỗng thấy lòng đau lại, tôi nhớ lại bố mẹ tôi từng kể, thời bao cấp khó khăn thì khó khăn thật nhưng cả đường phố không có lấy một người ăn xin, không trẻ em lang thang, không người già cơ nhỡ, cả phường có khi chỉ có 2 ông công an, cả năm có khi chỉ giải quyết 1 vụ đánh nhau. Một sự thật là như vậy, nhưng vì sao thời bao cấp nó lại yên bình như thế, đó là vì chúng ta được học đạo đức, được học đạo đức thật sự. Cô giáo tôi từng kể, hồi thời của cô, người ta dạy về lòng yêu nước, dạy khác bây giờ nhiều lắm. Họ dạy rằng, yêu nước là gì, là yêu từng nhành cây ngọn cỏ của quê hương, yêu từ cái bàn cái ghê quanh ta, yêu từng người thân yêu quanh ta, yêu những người sống gần ta, yêu bằng một tình yêu chân thành, và tình yêu đó nó không ngừng lớn lên, nó từ yêu cái nhỏ quanh ta cho đến cái lớn, và cứ tiếp tục được trưởng dưỡng cho lớn dần, rồi nó thành tình yêu làng xóm, yêu quê hương, rồi là yêu những người cùng cơ quan, cùng cảnh ngộ, cùng giai cấp, rồi nó thành tình yêu với những người có hoàn cảnh khó khăn, yêu những người gặp bất hạnh, phải có sự đồng cảm với họ. Và khi đó nó lớn lên thì mới thành tình yêu đất nước, thành tình yêu cộng sản lớn lao. Lòng yêu nước là vậy, nó được trưởng dưỡng từ bé đến lớn, nó thực tế lắm chứ không viển vông, không hão huyền như hiện nay.
Ngày nay yêu nước của đội ngũ Dư Luận Viên và Lều Báo là gì, đó là lên mạng chửi Trung Quốc, khen Mỹ đòi liên kết với Phil để đánh Trung Quốc, cầu xin Nhật Mỹ Úc lập liên minh đánh Trung Quốc, tình yêu nước mới cảm động làm sao, mới tha thiết làm sao, mới nồng cháy làm sao. Họ thể hiện một tình yêu nước nóng bỏng đến mức có khi gặp những người cùng khổ trên đường, họ thản nhiên quay lưng đi mà không giúp đỡ, họ yêu nước nóng bỏng đến mức họ hỏi nhau làm sao để tránh nghĩa vụ quân sự phường, hay họ yêu nước nóng bỏng đến mức họ không biết công nhân ta sống thế nào, họ không biết nông dân việt Nam giờ ra sao. Tình yêu nước của họ mới lớn lao làm sao, tình yêu nước là gì, đó là họ không biết rằng công nhân ngày làm việc 14h đồng hồ và chỉ nhận lương 3 triệu/tháng. Họ yêu nước đến mức họ không biết rằng nông dân thấm đẫm nước mắt nhìn hàng đoàn xe chở nông sản bị tắc nghẽn, không có đầu ra. Họ yêu nước nóng bỏng đến nỗi, họ chửi bới công nhân vì đã bạo loạn đuổi nhà đầu tư nước ngoài đi, họ yêu nước đến nỗi họ chửi bới nông dân vì tin lời thương lái Trung Quốc. Họ yêu nước đến nỗi họ hô hào doanh nghiệp Việt hãy cố lên, hãy đánh bại Trung Quốc trong cuộc chiến kinh tế mà không biết doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn ở đâu, cần giải quyết cái gì. Họ yêu nước thật đó, tình yêu nước của họ nóng bỏng lắm, nó nóng bỏng đến nỗi tôi cảm thấy rằng dường như sức nóng đó có thể thiêu cháy cả biển Đông, thiêu cháy cái giàn khoan HD 981, nhưng sao nó lại lạnh lùng với những người công nhân, người nông dân Việt Nam thế vậy.
Còn nhớ năm xưa khi Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, bác Hồ của ta ra đi tìm đường cứu nước, cũng như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bác Hồ tìm đường cứu nước nhưng con đường của bác khác với các cụ lắm. Nếu như tình yêu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinnh nóng nhưng nó còn gắn liền với tư tưởng sĩ phu hẹp hòi, gắn liền với tư tưởng trung quân ái quốc, chỉ nằm trong cái gọi là sĩ phu yêu nước. Thì tư tưởng của bác Hồ là sao, đó là tình yêu thương tới từng người dân Việt Nam, Bác xót thương những người nông dân như chịu sưu cao thuế nặng, bị cướp hết ruộng đất, Bác xót thương cho những người công nhân đang bỏ xác nơi đồn điền cao su, nơi đường ray tàu hỏa, Bác xót thương cho những nhà tư sản, địa chủ yêu nước bị chèn ép, bị thực dân Pháp ép cho tán gia bại sản, Bác xót thương cho những tầng lớp nhân sĩ trí thức yêu nước bị tù đầy, bị xét xử như các cụ Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám v..v... và trên hết Bác xót thương cho nhân dân Việt Nam trong cảnh lầm than, cảnh nô lệ. Lòng yêu nước của Bác là như vậy, là bắt nguồn từ những điều thực tế nhất và khi Bác ra đi tìm đường cứu nước cũng là thế. Bác đã làm việc, làm sinh sống tại mẫu quốc, tại châu Âu xa xôi và Bác nhận ra, ở mẫu quốc cũng có những ông cụ ăn mày nhặt rác kiếm sống, cũng có những cô gái điếm đứng đường hàng đêm tại các khu ổ chuột. Từ đó Bác nhận thấy chủ nghĩa tư bản ở đâu cũng như nhau, và bác tìm được con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản. Tờ báo yêu nước của Bác cũng là tờ báo Người Cùng Khổ, nó không phải là Thanh Niên, là Tiền Phong, là Vietnamnet hay VNExpress, ngay từ cái tên tờ báo đã cho thấy lòng yêu nước trước tiên là sự đồng cảm, sự xót xa đối vơi những con Người Cùng Khổ, và bài báo Bác viết là gì, đó là bản án chế độ thực dân Pháp là những cái mà bọn thực dân Pháp đang đàu độc những con người bị bóc lột không chỉ tại Việt Nam mà là tại những nước thuộc địa. Bác yêu nước là như vậy đó, có cần đao to búa lớn không, có cần vỗ ngực tự xưng là yêu nước hay không. Đừng biến lòng yêu nước thành sự sĩ diện hão cá nhân viển vông, lòng yêu nước trước hết là từ sự đồng cảm với những số phận cùng khổ. Vấn đề là bè lũ Dư Luận Viên và bọn Lều Báo vẫn cho rằng chúng yêu nước mà chúng không hiểu rằng cái đó không phải là yêu nước, cái đó là sự thể hiện hão huyền về tình yêu nước, là sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân, là tính sĩ diện hão, thích thể hiện trước số đông của chúng, yêu nước xuất phát từ trái tim nóng, từ sự đồng cảm và xót thương, chứ không xuất phát từ cái miệng loa loa nói, từ cái vỗ ngực tự xưng. Muốn yêu nước là phải có một trái tim nóng và cái đầu lạnh.
Tôi không cần các bạn phải yêu nước như bác Hồ, nhưng trước tiên hãy học yêu nước như tổng thống Nga Pultin, đó là thấy dân Nga khổ mà đau xót, thấy người Nga bị đánh đập mà xót thương, thấy gái Nga phải làm đĩ điếm ở châu Âu mà đau lòng. Đã có ai yêu nước được như vậy chưa. Vâng thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, câu nói của cụ già ăn mày đó cứ làm tôi thấy đau nhói suốt, thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh còn không, thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh sao không thấy giúp đỡ họ những người có hoàn cảnh khó khăn, sao không thấy lấy chí học hành để đưa đất nước phát triển đi lên, Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh bây giờ là gì, ngồi nhà, lên facebook, chém gió, chửi bới và yêu nước bằng miệng chăng. Đó không phải là thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, đó là thanh niên của thế hệ chủ nghĩa cá nhân, là thanh niên hèn mạt. Một người nếu không có lòng đồng cảm, không có cảm xúc, không có sự yêu thương với những gì ngay xung quanh mình thì làm sao có cơ sở để có tình yêu nước được, tất cả chỉ là cái bánh vẽ được vẽ lên rất đẹp nhưng vô dụng mà thôi. Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh hiện nay hay lắm, tôi từng biết có vị thanh niên đang học tiến sĩ ở Úc, sẵn sàng tuần hành để thể hiện lòng yêu nước ở Úc, ném rác thải vào Đại sứ quán Trung Quốc ở Úc, nhưng khi bảo vị đó về Việt Nam đi, xây dựng đất nước đi, giúp đỡ những người khốn khổ đi thì nhận lại một câu, quốc gia này nhiều vấn nạn lắm, không về được, có về cũng không trọng dụng, ở lại nước ngoài sướng hơn dù anh được đi học bằng tiền thuế của nhân dân đó. Vâng nhục nhã thay cho cái gọi là thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, làm gì có cái gọi là thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh ở những người như vâỵ chứ, càng nghe mà tôi càng đau xót. Những thanh niên trẻ trâu hiện nay, bè lũ Dư Luận Viên, bọn phản động tại tờ báo thanh niên như Đỗ Hùng, hay bọn nhà báo bất lương như Đoan Trang đang hàng ngày làm nhục cho chữ thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh. Đau buồn cho thế hệ tôi, một thế hệ đang lớn lên, vô cảm, sĩ diện hão và chủ nghĩa cá nhân.
Mượn cảm hứng văn chương trong Hịch Tướng Sĩ của đức thành Trần Hưng Đạo, tôi bỗng lại muốn viết, muốn nói rằng: “Ta thường nghe, thanh niên là đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc, hãy nghe lại bài ca thời Thanh Niên Sôi Nổi của Liên Xô mà thấy Thanh niên là phải sống, là phải cống hiến, là phải nhiệt huyết và trên hết là phải yêu thương mọi người, có một tình yêu giai cấp, đất nước bao la. Nay các ngươi, sinh ra tại thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, ngõ thấy bọn doanh nghiệp FDI ngang nhiên đi lại ngoài đường chèn ép doanh nghiệp Việt, bóc lột công nhân Việt mà không biết cay. Bọn Hàn Quốc khinh khi sỉ mắng người Việt Nam mà không biết nhục, đem thân dê chó mà phô diễn văn hóa độc hại phá hoại văn hóa nước nhà mà không biết xót. Thấy lao động Việt Nam phải ra nước ngoài kiếm sống mà bị chủ đánh đập mà không thấy đau, thấy con gái Việt Nam hoặc sang Hàn Quốc lấy chồng để rồi bị đánh đập hay sang Singapore, Thái Lan làm đĩ điếm mà không thấy đau. Nhìn nông dân Việt Nam ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, được mùa vụ mà lại trắng tay vì bị lừa đảo, vì không xuất khẩu được do tình hình bất ổn mà không thấy xót xa. Nông dân Việt Nam, công nhân Việt Nam hàng ngày cố gắng vật lộn cuộc sống tìm đường mà đi không giúp họ. Nhìn thấy nông dân vì bọn đầu tư nước ngoài mà miếng đất cắm dùi cũng mất mà khôn cảm thấy thương. Nhìn công nhân Việt Nam sống ở nơi cùng khổ như ổ chó lợn, ngày làm việc quần quật hàng chục tiếng mà không thấy đau. Thử hỏi lương tâm các ngươi để đâm, lòng yêu nước các người để đâu. Nhìn xã hội mà vẫn có những cụ già, những em bé không nơi nương tựa, hàng ngày phải đi ăn xin, sống tha phương cầu thực mà không tỏ lòng trắc ẩn. Nay các ngươi, hàng ngày chỉ lo lên mạng xã hộimà chửi bới Trung Quốc, chửi bới giàn khoan HD981, thử hỏi chửi thêm trăm năm nữa cái giàn khoan có sụp đổ hay không, Trung Quốc có tụt hậu hay không mà vẫn đi lên từng ngày. Biến thành quân cờ cho bọn đế quốc Âu Mỹ như kẻ tay sai chống Trung Quốc mà không thấy nhục, tự cho mình là yêu nước như kiểu nhờ Mỹ đánh Trung Quốc mà ko hiểu Mỹ đang biến mình thành lũ chó săn. Thanh niên yêu nước Việt Nam sẵn sàng liếm trôn các Oppa Hàn Quốc mà không thấy nhục. Nhục nhã thay bọn Dư Luận Viên mồm to, bọn Lều Báo hô lắm, bọn thanh niên thờ Oppa liếm đít ngoại bang mà sỉ nhục cha mẹ. Nay các ngươi, không chịu tu chí học hành để giúp đỡ Việt Nam, không chịu tìm cách đóng góp để gỡ nguy cho doanh nghiệp Việt đang vật vã vì khủng hoảng kinh tế, không chịu tìm cách để nâng cao đời sống nông dân, để giúp đỡ công nhân không bị bóc lột, không xây dựng đất nước để lao động Việt Nam có thể kiếm sống trên mảnh đất quê hương không phải tha phương cầu thực, để con gái Việt Nam không phải sang nước khác làm đĩ điếm. Một lòng chỉ mong kích động chiến tranh bởi sĩ diện hão, bởi chủ nghĩa nhân, mà không biết rằng nếu chiến tranh xảy ra thì sao. Một mai nếu có chiến tranh thì bàn phím cứng không thể đập nát xe tăng địch, màn hình sáng lóa không thể dùng để chiếu mù mắt quân địch, miệng lưỡi hô hào không thể làm địch điếc tai mà chết, chém gió không thể tạo thành giông bão nhấn chìm tàu chiến địch, biểu tình tuần hành đông đảo không thể dẫm chết quân địch. Thao trường không luyện tập sao đòi ra chiến trường để đánh nhau với địch, chỉ sợ lúc vừa nghe tiếng súng đã tim đập chân run đái ra quần mà bỏ chạy. Nay khuyên các ngươi, nếu biết quay đầu thì lấy khí thế đó mà ra sức học hành rèn luyện, tích cực lao động chăm chỉ làm việc, để làm sao xây dựng Việt Nam ngày càng vững mạnh, để làm sao Việt Nam không còn người nghèo khổ, để nông dân Việt Nam vui tươi vì được mùa, để công nhân Việt Nam có được nhà lâu xe hơi mà dùng, để Việt Nam hùng cường, khoa học phát triển, vũ khí hiện đại thì tự khắc còn nước nào dám chèn ép Việt Nam. Nay các ngươi ngày ngày chửi Bắc Triều Tiên lạc hậu mà không nhìn sang thấy sự quật cường của dân tộc đó, công nghiệp phát triển đi trước Việt Nam gần trăm năm, người Bắc Triều có vũ khí hạt nhân dám đương đầu với Mỹ mà không sợ hãi, người Bắc Triều có tàu điện ngầm mà Việt Nam đến tàu hỏa còn không xong. Người Bắc Triều ko cần dùng Ipad, Iphone mà có thể tự chế điện thoại di động, máy tính bảng để dùng. Người Bắc Triều nghèo hèn hơn Việt Nam mà y tế giáo dục miễn phí, an sinh xã hội rất tốt. Người Bắc Triều nghèo hơn Việt Nam nhưng không thấy có ăn mày, có người lang thang cỡ nhỡ nằm màn trời chiếu đất. Nhìn sang nước Nga quật cường đang từ một nước nhục nhã bị Mỹ chèn ép giờ dám đương đầu với Mỹ, dám lấy lại lãnh thổ của mình đã bị bọn đế quốc chiếm đoạt, dám bảo hộ cho những dân tộc yếu đuối trước Mỹ và cho họ quyền tự quyết dân tộc. Hay nhìn sang ngay chính kẻ thù của chúng ta là người Trung Quốc thì sao, người Trung Quốc giờ đang từng ngày đi lên, từng ngày thay đổi, đã chế được Tàu vũ trụ bay vào tương lai, đã có thể làm đường sắt cao tốc mà không thua gì chất lượng của Đức Pháp, đã từ nghèo hèn hơn Việt Nam năm 1979 mà giờ giàu gấp 3 lần Việt Nam, người Trung Quốc cũng đang chuyển mình, đã qua rồi cái thời Âu Mỹ chèn ép họ rằng người Trung Quốc chỉ là giống chó lợn của Âu Mỹ và giờ đây bọn Âu Mỹ còn đang kinh sợ người Trung Quốc, kinh sợ một đế chế Trung Hoa. Còn người Việt Nam thì sao, không nói tự các ngươi biết, bọn Hàn Quốc khinh bỉ Việt Nam ra sao, bè lũ Âu Mỹ coi dân Việt Nam là giống mọi rợ, vậy tự tôn ở đâu, lòng yêu nước ở đâu. Nhìn thấy tình cảnh quốc gia như vậy phải biết mà phấn đấu, phải biết mà tự cường, thế hệ Hồ Chí Minh là thế hệ thanh niên phải biết dấn thân, phải biết xông pha xây dựng đất nước, hãy làm sao cho Việt Nam trong vòng 10-20 năm nữa chuyển mình, cho người Việt Nam không còn đói khổ, cho nông dân được nhà cửa khang trang, cho công nhân được làm chủ máy móc, cho người lang thang cơ nhỡ có mái nhà để ở, cho người già và trẻ em được bảo vệ, cho con cái hiểu thảo với cha mẹ, đền ơn giáo dưỡng của cha mẹ, cho trẻ em đến trường không cần đóng học phí, cho người bệnh chữa bệnh không tốn tiền y tế. Cho Việt Nam có một nền công nghiệp không thua gì các cường quốc năm châu, cho Việt Nam thật sự hùng cường, để người Việt Nam đi đâu cũng ngẩng cao đầu, không còn phải làm kẻ giúp việc, làm công nhân mạt hạng, làm đĩ điếm nữa, thanh niên các ngươi làm được. Đó mới là thế hệ Hồ Chí Minh đích thực, giờ hãy quay đầu cảnh tình, để mà xây dựng lại thế hệ Hồ Chí Minh đi, đó là lời khuyên chân thành nhật.”.Một thế hệ Việt Nam đang cần phải thay đổi và phải học lại về lòng yêu nước chân chính đích thực, hãy nhớ những lời Bác Hồ dặn ghi sâu trong tim: “Dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, đó là một phần nhờ công học tập của các cháu.”
Hà Nội, ngày 19 tháng 6 năm 2014
TTCS
(Tiếng nói của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Việt Nam).

       

Kỳ 3: Báo chí Việt Nam nền báo chí cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Việt Nam hay bè lũ tuyên truyền của Mỹ.

Có lẽ do công việc bận rộn nên tôi cũng quên đi mất, nhưng một lần một người bạn đến thăm tôi và có kể thế này, anh ơi thấy báo chí và truyền hình đang tính bảo vinh danh 74 “chiến sĩ“ VNCH hi sinh tại Hoàng Sa để bảo vệ tổ quốc. Tôi nghe xong mà tự dưng thấy lòng đau nhói rồi tự hỏi, liệu lịch sử phát viết lại chăng. Chẳng nhẽ đã đến thời kỳ mà những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống trở thành những anh hùng. Cái ngày đó có lẽ không xa nữa rồi, từng nghe rằng năm 2000 khi tổng thống Mỹ Bill Clinton sang thăm Việt Nam đã từng nói Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu rằng Mỹ đã thua ở Việt Nam trong quá khứ, nhưng Mỹ sẽ trở lại Việt Nam với tư thế của những người chiến thắng. Có lẽ ông ta đã đúng và tôi cũng thấy đúng. Hàng loạt các bài báo đòi vinh danh VNCH và bè lũ để mất Hoàng Sa như các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam đã hi sinh, đòi cho chúng được xét là liệt sĩ. Đã thế một loạt các bài báo phỏng vấn Thiếu Tướng Lê Văn Cương càng cho thấy sự bợ đỡ nước Mỹ, coi Mỹ như vị cứu tinh, Như vậy bạn có thể thấy Bill Clinton đã nói đúng và dự báo của ông ta không hề sai. Nhưng tại sao ông ta lại có cơ sở để đưa ra những nhận xét như vậy, có lẽ ít ai biết được rằng thế cờ này đã được Mỹ vạch ra từ cách đây 40 năm, thế cờ giúp Mỹ trở lại Đông Nam Á đàng hoàng chính chính như những kẻ xâm lược khoác trên vai là hình ảnh của những anh hùng. Bài viết này của tôi cũng vậy, sẽ tập trung phân tích một số vấn đề trên.
Thứ nhất: về việc ông Lê Văn Cương, nguyên thứ trưởng Bộ Công An đòi công nhận tính chính danh cho chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa để hợp pháp hóa chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa thì tôi xin phân tích lại cho ông rằng ông không hiểu lịch sử hay ông cố tình bôi nhọ lịch sử. Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, nhưng xin thưa ông trước năm 1945 dân tộc Việt Nam là dân tộc mất nước vì đã bị thực dân Pháp đô hộ. Chỉ đến khi năm 1945, khi cách mạng tháng 8 thành công thì lúc đó người Việt Nam, dân tộc Việt Nam mới có lại quốc gia của chính mình, có lại đất nước của chính mình. Ngày 2 tháng 9 khi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập trên quảng trường Ba Đình để làm gì, để tuyên bố với thế giới rằng dân tộc Việt Nam đã có một đất nước của chính họ, đó là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và trong hiến pháp 1946 đã ghi rõ quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là bao gồm tất cả lãnh thổ, lãnh hải, và hải đảo trong đó bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa. Như vậy đứng trên cơ sở pháp lý thì đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất bao gồm đất nước của dân tộc Việt Nam là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và quốc gia này đã bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa. Vì thế hiệp định Gionevo là gì, là hiệp định ký kết cho quân Pháp sau khi thất bại tại Việt Nam thì sẽ có 2 năm rút khỏi Việt Nam, Pháp sẽ rút quân từ phía miền Nam Việt Nam, tức là miền Nam của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chứ ko phải miền nam của người Pháp, người Việt Nam cho Pháp mượn tạm chỗ để rút quân. Sau 2 năm thì Việt Nam sẽ tổ chức tổng tuyển cử, việc tổng tuyển cử là để bầu ra nhà nước cho nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hợp pháp theo ý nguyện của nhân dân chứ không phải thay đổi chế độ. Nhưng lợi dụng điều này, Mỹ đã nhảy vào miền Nam Việt Nam thành lập chính thể khác đó là chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và thể chế Việt Nam Cộng Hòa. Nói về hành động này của Mỹ là sao tức là xâm phạm một quốc gia có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Mỹ đã chiếm miền Nam Việt Nam làm của Mỹ trong đó bao gồm cả chiếm Hoàng Sa và Trường Sa và tạm thời giao lại cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Điều này có nghĩa Mỹ cướp miền Nam, Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và giao nó lại cho bọn tay sai Việt Nam Cộng Hòa để thay Mỹ quản lý. Tức Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ có quyền sở hữu Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ là kẻ quản lý thuê do Mỹ dựng lên để quản lý miền Nam, quản lý Hoàng Sa và Trường Sa là những mảnh đất mà Mỹ đã cướp trắng trợn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Vì vậy không cần phải công nhận chính thể Việt Nam Cộng Hòa thì Trường Sa, Hoàng Sa và cả miền Nam vốn đang là của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – quốc gia hợp pháp, hợp hiến duy nhất của dân tộc Việt Nam. Việc ông ngang nhiên bảo công nhận tính hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa để đấu tranh pháp lý đòi chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam tức là ông đang công khai phỉ nhổ vào bản Tuyên Ngôn Độc Lập của chủ tịch Hồ Chí Minh, phỉ nhổ vào hiến pháp 1946 và phỉ nhổ vào tính hợp pháp, hợp hiến của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hoàng Sa và Trường Sa đã và luôn lãnh thổ của người dân Việt Nam, của quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và bây giờ là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Không cần và không bao giờ phải công nhận cái chính thể bán nước Việt Nam Cộng Hòa hợp pháp để công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Việc phát biểu của ông nào là phải nhờ Mỹ giúp đỡ rồi công nhận chính thể Việt Nam Cộng Hòa là những hành động không thể chấp nhận được, như đã phân tích ở trên hành động của ông là phỉ nhổ, là bôi xấu Tuyên Ngôn Độc Lập mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết, là bêu xấu tính hợp pháp và hợp hiến của đất nước Việt Nam, là bôi nhọ hiến pháp 1946. Chúng tôi rất nhiều người sinh sau đẻ muộn nhưng khi thông hiểu lịch sử đều hiểu rằng tầm quan trọng của chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, của Tuyên Ngôn Độc Lập và của Hiến Pháp 1946 thế nào. Ông Lê Văn Cương, nếu ông không chịu công khai xin lỗi về những phát biểu của chính mình trên tờ báo phản động Thanh Niên thì sau này chúng tôi nghĩ không cần phải gọi ông là thiếu tướng Lê Văn Cương nữa mà phải gọi là Lê Văn Cương kẻ phản bội chủ tịch Hồ Chí Minh và quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Thứ 2: chúng ta đều biết năm 1974, chính Mỹ đã lệnh cho Việt Nam Cộng Hòa bán lại Hoàng Sa cho Trung Quốc, cái màn kịch đó đã được rất nhiều bọn báo chí mất dạy Việt Nam viết lại như một cuộc chiến oai hùng theo cái hồi ký giả tạo của Hà Văn Ngạc, trong khi hồi ký của Lê Văn Thự là sự thật thì chúng nó ko nói đến. Câu hỏi đặt ra phải chăng báo chí Việt Nam không yêu nước mà chúng chỉ đang lợi dụng tình hình biển đảo rối ren để lấy cớ khôi phục tính chính danh cho Việt Nam Cộng Hòa, đưa những kẻ đã bán nước đứng lên thành anh hùng. Như đã từng phân tích ở kỳ I, việc công nhận anh hùng của những lính ngụy đã chết trong hải chiến Hoàng Sa là việc viết lại lịch sử, là đảo ngược luân lý đạo đức và nó có hại rất nhiều, giới trẻ sau này sẽ nghĩ sao: chỉ cần có lợi, bán nước rồi sau đó dựng vở kịch, viết cái hồi kỳ mất dạy là chúng nó sẽ được nhà nước công nhận là anh hùng chăng. Việc thay đổi đạo đức nhân nghĩa thông qua xét lại lịch sử không chỉ ảnh hưởng đến tư tưởng giới trẻ mà còn là hành động bêu xấu, sỉ nhục những người chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống vì độc lập tự do, vì thống nhất đất nước của Việt Nam, đó không chỉ là sự sỉ nhục với 64 chiến sĩ đã hy sinh tại Gạc Ma mà còn là sự sỉ nhục với tất cả những chiến sĩ bao gồm những người thuộc Trung Đoàn thủ đô 1946, những người đã hi sinh tại chiến trường Điện Biên Phủ, tại chiến trường miền Nam, tại Điện Biên Phủ trên không, đường 9 Nam Lào, nghĩa trang Trường Sơn khi mà họ bị đặt phải đứng chung cùng bè lũ bán nước này. Còn bao nhiêu anh hùng, thương binh liệt sĩ nữa, những người như anh hùng Phạm Tuân, Lê Mã Lương, anh hùng La Văn Cầu, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Nguyễn Viết Xuân … giờ đây sẽ phải đứng chung cùng bọn bán nước như Hà Văn Ngạc sao, vậy đó là công bằng sao, là thiên lý sao, không đó là sự sỉ nhục với những đóng góp của chính họ. Có thể nói ván bài Hoàng Sa và Trường Sa Kissinger đã xây dựng từ 40 năm trước khi mà bán Hoàng Sa cho Trung Quốc, bán Trường Sa cho Philippine để làm gì, để gây nên những mâu thuẫn, tranh chấp hải đảo sau này của Việt Nam với các nước láng giềng, để sau này Mỹ có cớ trở lại Đông Nam Á như những người hùng. Những gì Mỹ làm đều là tính toán có lợi cho Mỹ hàng chục năm và Mỹ luôn đứng ở giữa kích động Việt Nam với Trung Quốc giống như kích động chiến tranh vì đó là kịch bản có lợi nhất cho Mỹ, dùng Việt Nam làm con tốt thí để kìm hãm sự phát triển của Trung Quốc. Nhưng những gì Mỹ đã làm cùng với hệ thống tuyền truyền của Mỹ và sự ngu dốt của báo chí Việt Nam đã và đang tiếp tay cho Mỹ giống như những anh hùng giúp Việt Nam mà ko hiểu chính Mỹ tạo nên thế cờ này để Mỹ ở giữa ngư ông hưởng lợi. Chính vì vậy Mỹ đã tính trước điều này 40 năm nay nên không phải là không có cơ sở khi mà cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton phát biểu Mỹ đã thua tại Việt Nam nhưng Mỹ sẽ trở lại và Việt Nam sẽ đón chào Mỹ như những anh hùng. Cũng thế sự ngu dốt của báo chí Việt Nam còn thể hiện ở việc, khi chúng đăng những bài viết ca ngợi hải quân Việt Nam và hải quân Philippine hợp tác với nhau trên Trường Sa. Xin thưa Trường Sa và Hoàng Sa đều là của Việt Nam, vì vậy Philippine cũng giuống như Trung Quốc, cũng là kẻ đang cướp lãnh thổ của Việt Nam, tại sao chỉ chống Trung Quốc mà ko chống Philippine, tại sao chỉ đuổi Trung Quốc mà ko đuổi Philippine. Đều là phường ăn cướp như nhau thì đừng nghĩ đến việc mượn 1 thằng ăn cướp để đuổi 1 thằng ăn cướp vì nếu có đuổi được thì thằng kia sẽ lại quay ra cướp lại của chính mình. Ca ngợi Philippine chỉ càng cho thấy sự ngu dốt của lũ báo chí, hay vì Philippine là đồng minh của Mỹ nên ca ngợi thằng ăn cướp thành anh hùng, loạn hết rồi, vậy nên một số báo còn đưa ra nhận định là phải liên kết với thằng ăn cướp để đuổi thằng ăn cướp, phải mời Mỹ, mời Phil để chống Trung Quốc, nhưng chính những thằng đó cũng đang cưỡng chiếm lãnh thổ Việt Nam, cũng đang ăn cướp đấy thôi và nó cũng đã từng đem quân xâm lược Việt Nam giết dân Việt Nam. Cái mà báo chí Việt Nam ca ngợi cho thấy kế sách của báo chí Việt Nam làm cho dân chúng là gì, bảo vệ độc lập chủ quyền bằng cách đuổi sói cửa trước, rước hổ cửa sau.
Thứ 3: bọn báo chí ngày ngày ra rả ca ngợi rằng Việt Nam cần tảy chay Trung Quốc, cần tự lực tự cường, chúng là loại ăn nỏ, rảnh rỗi, nên làm hại đất nước. Chúng cho rằng Việt Nam sẵn sàng để chiến tranh với Trung Quốc nhưng chúng không biết rằng khi đấu tranh về kinh tế thì thiệt hại đầu tiên là gì, như lần trước đã thấy đó là công nhân mất việc do đất nước không ổn định, tình hình lúc nào cũng bị bọn báo chí đẩy căng thẳng như sắp chiến tranh, doanh nghiệp thì gặp khó khăn trong kinh doanh do không có nguồn nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất. Nên nhớ Việt Nam còn nghèo, còn khó khăn về kinh tế, muốn thoát khỏi lệ thuộc thì trước tiên phái giúp cho doanh nghiệp phát triển, công nhân có việc làm, nhưng chúng lại làm cái việc bóp chết doanh nghiệp, bóp nghẹt công nhân. Kế đó chúng làm cho tình hình căng thẳng, làm cho nông dân khó xuất khẩu, làm cho họ phải nhìn thành quả lao động của mình không xuất khẩu được, nhìn mồ hôi công sức đổ xuống sông xuống biển cả rồi đây người nông dân Việt Nam sẽ sống ra sao. Còn nhớ cách đây mấy năm, bọn báo chí đã giết nền kinh tế Việt Nam khi chúng ngày ngày ca ngợi kinh tế tài chính kiểu Anh Mỹ mà ko xây dựng kinh tế sản xuất làm chậm lại tiến trình công nghiệp hóa đất nước, làm cho năng suất lao động của Việt Nam khó mà tăng cao, làm cho hàng hóa Việt Nam khó xuất khẩu, thì ngày nay, bọn báo chí bằng sự thông minh của chúng đang tiếp tục bóp chết doanh nghiệp Việt, bóp chết công nhân và nông dân bởi sự kích động chiến tranh của chúng. Một đất nước mà bát cơm ta ăn là do nông dân làm ra, cái áo ta mặc là của công nhân làm ra, xuất khẩu toàn nhờ vào nông sản và dệt may, kinh tế phát triển là do công nhân và nông dân làm ra thì bọn báo chí đang bóp chết họ. Và nếu đất nước có xảy ra chiến tranh thì loại báo chí đó cũng sẽ ở nhà, sẽ trốn nghĩa vụ, sẽ tiếp tục kích động, còn đi đầu chiến tuyến sẽ lại là con em nông dân và công nhân. Vậy nền báo chí này là nền báo chí cách mạng, là tiếng nói của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Việt Nam hay là nền báo chí tuyên truyền cho Mỹ, tuyên truyền để bóp chết giai cấp vô sản và nhân dân lao động Việt Nam. Rất nhiều trí thức biết và họ đã nói nhưng họ không thể nào nói lại được sự ngu dốt, hung hãn và đông đúc của một bè lũ báo chí phản cách mạng và sự ngu dốt của bè lũ dư luận viên trên các mạng xã hội đang ngày ngày kích động và bóp chết nhân dân Việt Nam. Nghĩ đến đây mà tôi càng cảm thấy đau, thấy xót cho nhân dân lao động, giai cấp vô sản Việt Nam khi có một nền báo chí thảm hải và bán nước như vậy.
Hà Nội ngày 9 tháng 6 năm 2014
TTCS
(tiếng nói của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Việt Nam)


Kỳ 2: Nền báo chí và hệ thống dư luận viên phản cách mạng

Tôi viết bài này có thể sẽ động chạm đến rất nhiều người, thậm chí có những người sẵn sàng quay lưng lại để chửi bới tôi nhưng tôi cảm thấy không thể không nói được. Tôi đã từng nghĩ có thể sẽ im lặng, nhưng cuối cùng tôi nhận ra sự im lặng sẽ chỉ khiến cho mình thêm hèn nhát vì vậy tôi nghĩ rằng tôi phải viết và phải nói ra nó. Mấy ngày gần đây, khi mà cả nước đang xôn xao lên về vụ giàn khoan HD981 của Trung Quốc tại vùng biển Việt Nam cũng như một số các cuộc biểu tình đã diễn ra để phản đối hành động của Trung Quốc. Một số người đã hỏi tôi về vấn đề này nhưng tôi không đưa ra bất kỳ một ý kiến nào cả, đơn giản vì như lần trước đã phân tích, theo ý kiến cá nhân của tôi, Việt Nam cũng giống như 1 người cần chữa bệnh từ bên trong hơn là bên ngoài, cần phải xem xét các vấn đề nội tại trong xã hội Việt Nam là chính. Những vấn đề này tôi đã đề cập đến trong bài viết kỷ niệm 196 năm ngày sinh của Karl Marx. Chính vì vậy tôi tránh việc làm căng thẳng các vấn đề bên ngoài hay như biển Đông, tuy nhiên ngay lúc thời điểm bấy giờ, báo chí liên tục đưa các thông tin về biển Đông cũng như các bình luận của chuyên gia, của các NGOs về Biển Đông cũng như cổ vũ cho biểu tình chống Trung Quốc. Ở một số tờ báo còn đăng các bài viết như thể hiện lòng yêu nước cũng như lớn tiếng dạy dỗ người khác về lòng yêu nước. Lại thêm một số lượng lớn các fan page trên các mạng xã hội hoặc đội ngũ Dư luận viên đông đảo hô hào, chia sẻ thông tin và kêu gọi biểu tình, kêu gọi tảy chay hàng hóa Trung Quốc. Những thức này như kích thích thêm tính tự tôn dân tộc của người Việt Nam lên rất cao. Mỗi người, mỗi ngành nghề lại có những cách chia sẻ thể hiện khác nhau. Thậm chí có một số lều báo còn bám vào những luận điểm như Việt Nam được Mỹ ủng hộ, được quốc tế ủng hộ cần phải kiên quyết. Và chỉ đến khi xảy ra những vụ bạo loạn ở Bình Dương, ở Hà Tĩnh thì lúc này lại thấy các báo chí và các vị trí thức trên mạng quay sang chửi rủa công nhân chúng ta, họ kêu gào là phải bắt các công nhân này, phải bắt những kẻ nổi loạn lại vì họ làm ảnh hưởng đến các nhà đầu tư, làm các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không đầu tư vào Việt Nam và làm xấu mặt hình ảnh của Việt Nam. Rồi ngày hôm nay khi mà đã có thông tin đến hàng trăm người bị bắt ở Bình Dương thì các lều báo, các Dư luận viên lại chia sẻ những hình ảnh đó, họ kêu gọi cần có những hình thức trừng phạt đích đáng cho những người bị bắt và họ quy luôn những người đó là những kẻ kích động là những tổ chức phản động giấu mặt đang phá hoại. Một hiện tượng đang diễn ra và khá phổ biến trên các báo mạng và mạng xã hội tại Việt Nam.
Khi xem đến đây tôi bỗng dưng lại nhớ đến một trích đoạn khá nổi tiếng của Karl Marx trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản như sau: “Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời. Thoạt đầu, cuộc đấu tranh được tiến hành bởi những công nhân riêng lẻ; kế đến, bởi những công nhân cùng một công xưởng; và sau đó, bởi những công nhân cùng một ngành công nghiệp, cùng một địa phương, chống lại người tư sản trực tiếp bóc lột họ. Họ không phải chỉ đả kích vào quan hệ sản xuất tư sản mà còn đánh ngay vào cả công cụ sản xuất nữa; họ phá huỷ hàng ngoại hoá cạnh tranh với họ, đập phá máy móc, đốt các công xưởng và ra sức giành lại địa vị đã mất của người thợ thủ công thời trung cổ….Còn tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối rữa của những tầng lớp bên dưới nhất trong xã hội cũ, thì đây đó, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào, nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho những mưu đồ của phe phản động”. Có những kẻ trí thức lớn tiếng kêu rằng những người công nhân đó là lưu manh, là cặn bã xã hội cần phải trừng trị đích đáng. Nhưng nếu nhìn lại cái phân tích ở trên của Karl Marx thì sao, họ đúng là sự thối rữa của xã hội cũ, họ là vì chính sách cuộc sống cơ cực của mình mà sẽ bị lôi cuốn vào phong trào vô sản, nhưng lại dễ bị bán mình cho phe phản động vì họ thiếu hiểu biết, vì họ quá thiếu thốn, quá khổ sở rồi. Những ai đọc đến đoạn này của Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản mà không nhìn ra được cái bản chất bên trong, cái phân tích sâu sắc của Karl Marx thì không thể thấy được tính nhân đạo của ông, sự phân tích xã hội đúng đến đáng kinh ngạc của ông. Hơn nữa các hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản là thế nào, đó là phá hủy hàng hóa cạnh tranh, là đập phá máy móc, là đốt các công xưởng của chính họ vì theo họ đó là nguồn gốc của bóc lột, không ai chỉ cho họ giác ngộ xem họ cần làm gì, và họ nên làm gì và làm thế nào thì họ sẽ đấu tranh một cách tự phát và hệ quả là như chúng ta đã thấy. Nhưng liệu có ai chịu đứng ra để xem vì sao họ lại thế, họ hành động như thế là nguyên nhân từ đâu. Có lẽ không ai khác là K.Marx và F. Egnels, những người thầy đáng kính của giai cấp vô sản có thể giải thích được điều này
Thứ nhất: cuộc biểu tình biến thành bạo động của công nhân trước hết nó xuất phát từ những mâu thuẫn đã âm ỉ, đã chất chứa, giữa công nhân và những người chủ tại các doanh nghiệp mà đã chất chứa từ rất lâu rồi. Nó giống như ngọn lựa hồng trong đống tro vậy, âm ỉ cháy và chỉ đợi có cơ hội thì bùng phát lên, vì sao lại như vậy, trước hết nó xuất phát từ chính hoàn cảnh cơ cực của công nhân. Chúng ta hãy đến với một số những phân tích của chính Engels trong cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh: “Ở đây, giai cấp công nhân chiếm chừng 78% tổng số cư dân (gần 300.000 người), họ ở những khu phố còn nghèo nàn và ghê tởm hơn cả những hang ổ tồi tệ nhất ở St. Giles và ở Whitechapel, những vùng ngoại ô ở Dublin và những wynds ở Edinburgh. Những khu như thế có rất nhiều ở trung tâm thành phố - ở phía nam Trongate, phía tây Saltmarket, trong khu Calton, sau phố High, v.v.; đó là những ngõ hẹp và những đường ngoắt ngoéo, chằng chịt với nhau, lắt léo không cùng, ở đó cứ vài bước lại gặp những sân hoặc những ngõ cụt, gồm những ngôi nhà cũ kỹ, sắp đổ, những tầng thấp, bí hơi và không có ống nước. Những nhà ấy đúng là chật ních người. Mỗi tầng có ba hoặc bốn gia đình, có khi đến hai chục người, có khi mỗi tầng lại cho thuê làm nhà ngủ trọ, và trong mỗi phòng nhét đến mười lăm, hai mươi người, không thể nói là ở, mà là chồng chất lên nhau. Các khu phố ấy là chỗ nương thân của những kẻ nghèo khổ nhất, trụy lạc nhất, đạo đức đồi bại nhất trong cư dân, và nên xem là chỗ bắt nguồn của những bệnh dịch sốt truyền nhiễm ghê gớm lan tràn ra khắp cả Glasgow…
…Đây cái giới hạn, mức lương tối thiểu, cũng là tương đối: khi trong gia đình mọi người đều đi làm, thì mỗi người có thể kiếm ít đi một chút, và giai cấp tư sản đã tận dụng tối đa cơ hội này: nhờ lao động máy móc, có thể thuê cả phụ nữ và trẻ con vào làm, để hạ thấp tiền lương. Tất nhiên có những gia đình, trong đó không phải ai cũng làm việc được; một gia đình như vậy, sẽ rất khổ, nếu phải làm việc với mức lương tối thiểu, tính cho một gia đình gồm toàn những người có thể làm việc; vì vậy tiền lương được ấn định ở một mức trung bình, với mức này, nhà nào mà mọi người đều đi làm được sẽ sống tương đối khá, còn nhà nào có những người không làm việc được thì sẽ tương đối khổ. Nhưng gặp trường hợp tệ nhất, thì mỗi người lao động đều sẵn sàng từ bỏ chút tiện nghi và văn hoá mà anh ta đã quen thuộc ấy, miễn sao sống được; thà ở một cái chuồng gia súc còn hơn là màn trời chiếu đất; thà quần áo rách rưới còn hơn là không có tí quần áo nào; thà ăn khoai tây còn hơn là chết đói. Với niềm hy vọng ở ngày mai tốt đẹp hơn, họ đành chịu nhận một nửa tiền lương còn hơn là chết đói ở ngoài phố, như bao nhiêu người đã bị tước mất mẩu bánh mì. Cái chút ít ấy, cái "méo mó có hơn không" ấy, chính là tiền lương tối thiểu. Nếu số người lao động nhiều quá mức giai cấp tư sản cần sử dụng, nếu do đó mà qua cuộc cạnh tranh, vẫn còn một số người không tìm được việc làm, thì số ấy cứ việc chết đói; bởi vì nhà tư sản chắc hẳn sẽ không cho họ việc làm, nếu như hắn không kiếm được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm lao động đó….
Trong báo cáo về công xưởng, vẫn có đủ chứng cớ nói lên rằng: cả trong những công xưởng và ở những công nhân làm việc 12-13 giờ mỗi ngày, theo qui định trong đạo luật của ngài J. C. Hobhouse, vẫn luôn xuất hiện những chứng bệnh không nặng lắm: sưng mắt cá; yếu và đau ở chân, hông và cột sống; giãn tĩnh mạch; lở loét ở chân tay; toàn thân suy nhược, đặc biệt là vùng bụng; nôn ọe, chán ăn, có khi lại đói cồn cào, khó tiêu; chứng u uất; các bệnh phổi, do bụi và không khí xấu của công xưởng gây ra, v.v. và v.v. Về mặt này, nên chú ý đặc biệt tới những báo cáo ở Glasgow và Manchester. Những bệnh ấy vẫn còn sau khi có đạo luật năm 1833, và đến nay chúng vẫn tiếp tục phá hoại sức khỏe của giai cấp công nhân. Người ta chỉ quan tâm đến việc khoác một cái áo văn minh giả nhân giả nghĩa, lên lòng tham lợi nhuận thô bỉ của giai cấp tư sản; dùng luật pháp để không cho chủ xưởng gây ra những việc tệ hại quá lộ liễu, giúp họ có thêm lí do để lừa bịp và tự mãn về cái chủ nghĩa nhân đạo giả dối của họ, thế thôi. Nếu ngày nay lại cử một tiểu ban mới để điều tra về công xưởng, thì họ sẽ thấy tình hình phần lớn vẫn như xưa. Còn việc phổ cập giáo dục, mà đạo luật đề ra nhưng không có chuẩn bị trước, thì chưa có tác dụng, vì chính phủ không đồng thời nghĩ cách xây dựng những trường tốt. Các chủ xưởng thuê vài công nhân mất năng lực lao động làm giáo viên, trông coi lũ trẻ hai giờ mỗi ngày, cho rằng thế là đúng theo pháp luật; nhưng bọn trẻ không học được gì. Ngay cả những báo cáo của các thanh tra công xưởng, dù chỉ hạn chế ở mức thi hành phận sự, tức là kiểm tra xem chủ xưởng có tuân theo đạo luật về công xưởng hay không; cũng đưa ra đủ tài liệu để chứng tỏ rằng, những điều tệ hại nói trên vẫn tiếp tục tồn tại, như một tất yếu. Các thanh tra Horner và Saunders, trong những báo cáo tháng Mười và tháng Chạp 1843 của họ, nói rằng: trong các ngành không dùng trẻ em hoặc có thể thay chúng bằng người lớn thất nghiệp, nhiều chủ xưởng vẫn bắt công nhân làm mỗi ngày 14-16 giờ, và hơn nữa. Trong số công nhân của các ngành ấy, có rất nhiều người chỉ vừa mới vượt quá tuổi được pháp luật bảo hộ. Nhiều chủ xưởng khác cố ý phạm luật: họ rút ngắn giờ nghỉ, bắt trẻ em làm việc quá thời gian pháp luật cho phép, sẵn sàng ra tòa chịu phạt, vì tiền phạt chẳng đáng là bao so với món lợi mà họ thu được từ việc phạm luật đó. Nhất là hiện tại, khi đang kinh doanh rất tốt, thì chủ xưởng càng bị cám dỗ mạnh.”.
Đọc những đoạn trích trên, liệu bạn nghĩ rằng những gì Engels viết có lẽ là những gì xa xôi chăng, là những thứ xưa cũ chăng, vậy tôi xin bảo bạn sai rồi, bạn có bao giờ thử vào thăm 1 nhà máy sản xuất điện thoại Sam Sung xem, công nhân lao động từ 12h cho đến 14h một ngày và thông thường họ chỉ được nghỉ 15 phút ca sáng, 15 phút ca chiều và 1 tiếng vào buổi trưa để ăn. Với một thời gian lao động và cường độ lao động như vậy nhưng công nhân Việt Nam chỉ lĩnh khoảng tiền lương từ 3 đến 3,5 triệu VNĐ/tháng. Một con số mà họ phải ăn tiêu vô cùng tiết kiệm mới có thể đủ sống và có chút tiền dành để cho gia đình. Công nhân Việt Nam cũng phải sống trong những khu nhà thiếu thốn, những khu trọ cho thuê mà đời sống sinh hoạt rất thấp, tôi có một anh bạn từng làm  trong công ty xây dựng của Hàn Quốc nhưng thường phải sống trọ với điều kiện thiếu thốn, trong khi đó lại thường xuyên làm việc từ 7h sáng đến 9h tối kèm theo việc cúp lương, hoặc nợ lương là diễn ra thường xuyên. Không chỉ Sam Sung mà bạn đến bất kỳ một khu công nghiệp nước ngoài nào thì tình cảnh cũng gần giống như thế mà không khác nhau là mấy. Một cuộc điều tra thống kê tại Việt Nam và được đưa lên kênh thông tin tài chính của VTV đã cho thấy số doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội nhiều nhất ở Việt Nam lại là các doanh nghiệp FDI, số doanh nghiệp trốn thuế nhiều nhất cũng là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp có mức lương trung bình thấp nhất của Việt Nam cũng là FDI. Nhiều người cho rằng làm trong doanh nghiệp nước ngoài thì lương cao, nhưng đó chỉ là bộ phận văn phòng, còn nếu là làm công nhân thì sẽ không có mức đó, và để tính mức lương trung bình trong từng khu vực thì họ sẽ tính tổng quỹ lương chia cho tổng số người lao động. Qua đó ta có thể thấy rằng thực sự đời sống công nhân Việt Nam đặc biệt làm trong các doanh nghiệp FDI hoàn toàn không hề dễ dàng tý nào, nếu không muốn nói là khổ cực, chưa kể việc tăng ca, tăng giờ làm và nợ lương là thường xuyên. Điều kiện vật chất như vậy nên đã là nguyên nhân chính dẫn đến tồn tại những mâu thuẫn giữa công nhân và các chủ doanh nghiệp.
Thứ hai: việc nổi loạn của công nhân tại các khu công nghiệp thuộc Bình Dương và Hà Tĩnh cũng xuất phát từ việc báo chí, và mạng xã hội liên tục tuyên truyền chống Trung Quốc. Đây là điều chắc chắn, bất kỳ báo mạng nào của Việt Nam mà không có những bài viết về Trung Quốc và biển đảo, ở đây tôi không bàn đến các vấn đề chính trị mà chỉ nói đến tuyên truyền. Bạn lật thử một trang báo mạng hay các diễn đàn trên mạng xã hội thử xem, đâu đâu cũng có Trung Quốc và 90% các tin này sẽ là: xã hội Trung Quốc vô cảm – hàng hóa Trung Quốc độc hại – thương lái Trung Quốc lừa Việt Nam – Trung Quốc chiếm biển đảo Việt Nam. 90% các tin đưa về Trung Quốc đều chỉ là những thông tin xấu, trong khi đó gần như Việt Nam không nhìn thấy Trung Quốc 1 điểm tốt nào, có chăng cùng lắm là các phát biểu của Trung Quốc trên trường quốc tế. Hệ thống tuyên truyền này nối từ năm này qua năm khác, kéo dài liên tục hàng ngày hàng tháng nó đã làm gì, đã in sâu vào trong tư tưởng người dân Việt Nam rằng Trung Quốc là xấu xa, là mọi rợ, là dân tộc bất lương, đểu giả nhất trên thế giới. Hãy hỏi người Việt Nam xem, cứ nói đến người Trung Quốc là họ sẽ nghĩ ngay đến đó là người bá quyền, là người đểu giả, là lừa đảo, nó in hằn vào tâm trí người Việt Nam. Đã yêu thì yêu cả đường đi, nhưng ghét thì ghét cả tông ti họ hàng vì thế tâm lý bài Trung Quốc đã trở thành truyền thống của Việt Nam. Nhưng trong khi đó các báo mạng của Việt Nam thì sao, tuyên truyền hộ rằng Mỹ là quốc gia tốt đẹp, là thiên đường của hạ giới, là quốc gia của chính nghĩa trên thế giới, vì thế khi Mỹ ủng hộ Việt Nam thì tức là Việt Nam cứ yên tâm mà chống Trung Quốc, có Mỹ đằng sau. Sự tuyên truyền này cũng kéo dài quanh năm suốt tháng và nó đã kích động lên làn sóng biểu tình, bạo động chống Trung Quốc. Giờ trong tâm lý của người Việt Nam đã được nhồi nhét một tư tưởng đó là bài Trung Quốc và sùng bái Mỹ. Cũng đúng thôi những thông tin như thế thường là rất nhiều người xem, mà nhiều người xem thì đồng nghĩa tăng lợi nhuận cho báo mạng, vì vậy họ càng phải đưa tin, đưa thật nhiều và cũng không cần kiểm chứng nguồn thông tin. Cái họ quan tâm là tiền, là lợi nhuận vì vậy họ phải đưa tin như vậy. Trong khi đó ở Việt Nam cũng có đông đảo một đội ngũ các vị tự nhận là dư luận viên trên mạng và họ tự tuyên truyền cái chủ nghĩa bài Trung Quốc trên mạng, họ có thể là già có, trẻ có, trung niên đều có, họ nêu cao ngọn cờ ủng hộ cái biểu tình chống Trung Quốc, dù họ phản đối các hành động của Việt Tân, của phản động, của nhóm No-U nhưng họ cũng vẫn hành động như vậy. Họ cho rằng đấy là cách khẩu hiểu thể hiện lòng yêu nước của họ, là họ cho đó là yêu nước. Xin thưa là vâng cách vị có cách thể hiện lòng yêu nước của các vị thì người công nhân, nông dân cũng có cách thể hiện lòng yêu nước của họ, đó là bãi công, là đập phá máy móc.
Từ hai nguyên nhân trên thì cái gì đến cuối cùng cũng phải đến, người công nhân ở các khu công nghiệp đã vùng lên, họ biểu tình, họ đập phá nhà máy, họ cướp các tài sản, đừng trách họ vì họ là vô sản, họ không được dạy học đến nơi đến chốn và họ chỉ hành động theo cảm tính và họ nghĩ đó là hành động biểu hiện yêu nước. Họ có phân được Trung Quốc và các nước Đông Á khác đâu, họ chỉ biết họ đang bị bóc lột thậm tệ ở các doanh nghiệp đó, họ thấy rằng ông chủ ở đó là da vàng tóc đen, là viết chữ toàn hình vuông thì hình tròn thì đều là Trung Quốc hết, họ quy tất cả người Nhật Bản, người Đài Loan, người Hàn Quốc, người Singapore đều là Trung Quốc hết, họ thấy rằng họ đã bị bóc lột, mà dân tộc đó lại còn đang chiếm biển đảo của họ, vì vậy họ phải vùng lên đấu tranh, họ phải cướp lại những gì thuộc về họ, về người Việt Nam. Không những thế cái chủ nghĩa dân tộc lên cao đến mức người vô sản phân biệt dân tộc đến mức kỳ thị, họ đánh cả những người vô sản khác đến từ Trung Quốc, những người công nhân cùng khổ như họ nhưng phải tha phương cầu thực vì miếng cơm manh áo. Sự kỳ thị trỗi dậy đến khủng khiếp với một tâm lý dân tộc cực đoan, họ tấn công chính những người cũng ở cùng hoàn cảnh như họ. Và rồi kết quả sau cùng người công nhân được gì: những thành quả lao động bao năm của họ bị mất, việc làm bị mất, tiền lương không được trả và đời sống bấp bênh lại càng bấp bênh hơn, họ đứng trước nguy nghèo đói và thất nghiệp, những lưỡi dao đang kề cổ họ. Họ bị lều báo, bị dư luận viên trì triết bảo rằng họ là loại phá hoại đất nước, là loại cần phải đi tù là loại phá hoại ổn định xã hội và làm xấu mặt hình tượng quốc gia. Vâng vậy tôi đặt câu hỏi là sao các lều báo, các dư luận viên không hướng dẫn họ kỹ trước khi họ biểu tình đi, các vị có học thức cơ mà, có trí tuệ cơ mà sao không giúp đỡ họ hiểu đi, chỉ đến khi họ xảy ra truyện rồi thì các vị lại quay sang để nói xấu họ, để nhục mạ người công nhân. Hiện tượng này làm tôi nhớ đến những gì K. Marx từng viết trong cuốn Cách Mạng và phản Cách Mạn ở Đức là vô cùng đúng về cái gọi là tầng lớp trí thức tiểu tư sản này: “Giai cấp tiểu tư sản, vĩ đại về mặt khoe khoang, lại rất không có khả năng hành động và lẩn tránh một cách nhút nhát khi cần phải làm một cái gì nguy hiểm. Tính chất nhỏ nhen của những việc giao dịch buôn bán và những hoạt động tín dụng của nó đã ảnh hưởng sâu sắc tới tính cách riêng của nó khiến cho tính cách này mang dấu ấn của sự thiếu nghị lực và thiếu tinh thần tháo vát, vì vậy phải thấy trước rằng hoạt động chính trị của nó sẽ mang những đặc điểm ấy. Nên trên thực tế, giai cấp tiểu tư sản đã khuyến khích cuộc khởi nghĩa bằng những lời lẽ trống rỗng và những lời huênh hoang về những điều nó quyết định làm; khi hoàn toàn trái với ý muốn của nó, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, thì nó vội đoạt lấy chính quyền; nhưng nó chỉ sử dụng chính quyền đó để thủ tiêu những kết quả của khởi nghĩa. ở bất cứ nơi nào mà một cuộc xung đột vũ trang đã đưa tình hình đến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng thì bọn tiểu tư sản đều khiếp sợ tình hình nguy hiểm đối với chúng; khiếp sợ thấy dân chúng coi trọng những lời kêu gọi chiến đấu huênh hoang của chúng, khiếp sợ thấy chính quyền rơi vào chính tay mình; và khiếp sợ nhất trước những hậu quả của chính sách mà chúng buộc phải thi hành, - những hậu quả sẽ đem lại không những cho bản thân chúng, mà còn cho địa vị xã hội và cho tài sản của chúng. Há chẳng phải là người ta đang chờ chúng thực sự hy sinh "tính mạng và tài sản", như chúng thường quen nói, cho sự nghiệp khởi nghĩa đó sao? Há chẳng phải là chúng đã bị bắt buộc phải giữ những chức vụ chính thức trong cuộc khởi nghĩa, khiến cho chúng sẽ gặp phải mối nguy mất cơ nghiệp khi khởi nghĩa thất bại, đó sao?”. Tôi xin nói thẳng nếu có chiến tranh xảy ra thì những kẻ trí thức tiểu tư sản đó cũng sẽ lại là những kẻ nầm xấp hô xung phong, còn ai lên đường chiến đấu, là quân đội, là bình lính là những người mà tầng lớp xuất thân của họ là từ giai cấp vô sản, từ công nhân và nông dân mà ra. Còn khi xảy ra hậu quả thì sao, vâng giai cấp tiểu tư sản lo sợ về những thiệt hại mà giai cấp vô sản gây ra, họ lo lắng rằng nhà đầu tư nước ngoài không đến Việt Nam, họ lo sợ đời sống sẽ bị sụt giảm, hình ảnh đất nước bị xấu đi vì người vô sản nên họ quay sang quy kết tội cho người vô sản và tổ chức phản động. Nhưng nói thật tổ chức phản động nó chỉ làm nột cái công việc là đổ thêm giọt nước tràn ly thôi, còn việc làm đầy cái ly là do những lều báo, những dư luận viên đã làm trước đó. Người công nhân và giai cấp vô sản chỉ là hệ quả của cái việc tuyên truyền đó thôi và giờ đây họ đang phải chịu cái gọi là búa rìu dư luận.
Nhưng cuối cùng nghĩ cho kỹ mà xem, cái áo tôi đang mặc do ai làm ra, là do công nhân làm ra, bát cơm tôi ăn là do ai làm ra, là do nông dân làm ra. Dụng cụ tôi dùng đều do công nhân – nông dân hay là do giai cấp vô sản làm ra trong đó có công sức lao động, có máu và nước mắt của chính giai cấp vô sản kết tinh trong những hàng hóa mà tôi dùng hàng ngày, tôi chưa làm gì đóng góp được cho họ, chưa giúp họ cải thiện được đời sống, tôi phải thấy xấu hố vì chính bản thân mình. Nhưng ngày hôm nay nhìn vào hoàn cảnh của giai cấp vô sản Việt Nam, những gì họ đang phải hứng chịu tư nguyên nhân của báo chí, của dư luận viên mà cảm thấy đau xót, những lều báo, những dư luận viên đang làm cái việc là phản cách mạng, làm hại đến chính giai cấp vô sản. Nhìn những người công nhân Việt Nam đau đớn vì mất việc, vì bị bắt bớ, bị tạm giam cùng với những sự kỳ thị, sự trì triết của xã hội dành cho họ mà cảm thấy đau đớn. Nhìn thấy công nhân Việt Nam đánh nhau công nhân Trung Quốc mà tự hỏi Marx đã bảo vô sản ở đâu cũng là anh em, là phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để xây dựng xã hội tốt đẹp mà tại sao cùng là vô sản lại bị kích động làm hại lẫn nhau. Cùng là những con người nghèo khó của xã hội mà tại sao lại cùng bị như vậy, công nhân Việt Nam bị kỳ thị, công nhân Trung Quốc cũng bị kỳ thị, hai bên cùng bị bóc lột, bị bần cùng hóa vậy thì tại sao lại đánh nhau, công nhân Trung Quốc và công nhân Việt Nam không có tội, họ chỉ là những nạn nhân của cái tuyên truyền của lều báo và dư luận viên. Nghĩ đến đây không khỏi đau xót rớt nước mắt cho chính giai cấp vô sản, vậy đến khi nào giai cấp vô sản mới có thể ngẩng mặt lên được với đất nước, với xã hội. Tôi chẳng có quyền gì, cũng chẳng đại diện cho trí thức tiểu tư sản gì ở đây, nhưng tôi vẫn muốn gửi đến những người công nhân, những con người của giai cấp vô sản lời xin lỗi chân thành vì những hậu quả đã gây ra cho chính giai cấp vô sản.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2014
                                                                                                         TTCS 

nó. T� � n �: ��9 ủa Việt Nam đã và đang trở thành cái ổ của tệ nạn xã hội và góp phần thúc đẩy tệ nạn xã hội.

Thứ hai: truyền thông ở Việt Nam đang xây dựng một thứ văn hóa luồn cúi kẻ mạnh, mà bắt nạ người yếu, thứ văn hóa hạ đạp thượng quỳ. Bạn có thể thấy khắp nơi nhan nhản trên các báo mạng, truyền thông Việt Nam hoặc dịch bài, hoặc viết bài ra sức đả phá các quốc gia bé nhỏ, ra sức chê bai các quốc gia yếu thế đang bị chèn ép, họ viết bài nói xấu từ Bắc Triều Tiên, cho đến Lybia, Iraq, thậm chí còn cả đất nước anh em Cuba, nước Nga, đất nước đã hiến dâng xương máu vì độc lập cho Việt Nam. Họ đã quên rằng cái ngày Việt Nam còn yếu thế, còn bị chèn ép thì những quốc gia này đã từng ủng hộ Việt Nam, đã từng giúp đỡ Việt Nam. Trong khi đó họ ca ngợi nước Mỹ, ủng họ Mỹ đem bom đạn và quân xâm lược đến các quốc gia này để giày xéo nhân dân các nước đó, để khủng bố, đàn áp, cưỡng đoạt tài nguyên và dựng nên những chế độ phát xít ở đây dưới cái vỏ bọc chính quyền tự do dân chủ kiểu Mỹ. Một thứ văn hóa hiếp đáp kẻ yếu, bợ đít kẻ mạnh đang ngày càng xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Những nhà báo như Ô sin Huy Đức, Đoan Trang, Nguyễn Anh Tuấn hay những blogger như Nguyễn Ngọc Lập, Nguyễn Xuân Diện đang và là đại diện cho cả một thế hệ những kẻ làm báo vô lương tâm, vô đạo đức, bợ đít kẻ mạnh và hiếp đáp kẻ yếu, chỉ biết chạy theo xã hội phù hoa, cướp bóc và làm giàu trên xương máu người khác.
Thứ ba: truyền thông Việt Nam đang cổ vũ cho thứ văn hóa ăn chơi Hàn Quốc, bạn có thể thấy phim Hàn Quốc, nhạc Hàn Quốc hay bài báo về diễn viên Hàn Quốc xuất hiện nhan nhản trên khắp các báo mạng, cổ vũ cho 1 thứ văn hóa ăn chơi, thứ văn hóa làm giàu bằng thủ đoạn, cho thứ văn hóa ích kỷ cá nhân. Chúng ta cứ trách cứ giới trẻ hàng ngày tại sao lại cuồng K-Pop mà bỏ quên chữ hiếu với cha mẹ, bỏ quên trách nhiệm với xã hội, với đất nước, đó chính là ở lỗi của chúng ta khi chúng ta hàng ngày tiêm nhiễm vào giới trẻ những bộ phim hay ca nhạc Hàn Quốc như vậy. Theo ý kiến ngu xuẩn của tôi thà chiếu phim lịch sử Trung Quốc còn hơn là phim Hàn Quốc vì nó còn dạy con người ta Trung, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu Thân Tôn Sư. Đừng trách giới trẻ cuồng K-POP khi chính chúng ta đang đầu độc chúng hàng ngày bằng thứ thuốc phiện đó. Bên cạnh đó truyền thông Việt Nam cũng đang làm mất đi văn hóa truyền thống, làm con người ta sống mất gốc, quên đi lịch sử dân tộc thông qua chính chương trình Giai Điệu Tự Hào. Việc họ mời những nhà phê bình, nhà phân tích nghệ thuật mà chẳng có tý am hiểu về lịch sử đã làm hỏng ý nghĩa nhân văn của chính những bài hát truyền thống cách mạng một thời, những nhà phê bình này chỉ biết nêu cái quan điểm cái tôi và phê phán, đả kích những tư tưởng đoàn kết, tư tưởng sống vì mọi người, tư tưởng xây dựng xã hội trong các bài hát đó. Có thể nói những con người không am hiểu về tư tưởng, văn hóa, đạo đức xã hội thì những sự phê bình của họ thật là lố bịch, nhưng truyền thông lại đưa lên như những nhà phê bình trí thức mà ko hiểu đó là đầu độc giới trẻ bởi những lối sống ích kỷ.
Thứ tư: sư tiêm nhiễm văn hóa tự do kiểu Mỹ lớn đến mức có những vị trí thức đòi hợp pháp hóa nghề mại dâm, đòi cho phép gái mại dâm làm việc công khai và ai trái ý kiến với họ thì họ cho rằng đó là đạo đức giả. Họ có hiểu rằng đó là việc suy đổi đạo đức hay không, họ có biết rằng gần 80% gái mại dâm không muốn làm cái nghề đốn mạt đó không, ai cũng vậy, có mưu cầu hạnh phúc, cũng muốn được xã hội tôn trọng chứ mấy ai muốn làm cái nghề mạt hạng vậy. Karl Marx trong Tư Bản Luận đã từng miêu tả sự khốn khổ của gái mại dâm, khi mà họ chính mình không có việc làm, phải đi làm công việc mạt hạng đó, bị khinh rẻ, ông chỉ ra một nguyên nhân sâu sắc chính là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản khiến cho nghề mại dâm càng ngày phổ biến, sự không được sở hữu tư liệu sản xuất khiến từ những xã hội có giai cấp đã đẻ ra cái nghề mại dâm đó. Vì vậy ta phải giúp họ, phải giúp họ có việc làm, trao cho họ tư liệu sản xuất, phải giáo dục lại họ để họ có thể làm người lại một lần nữa chứ không phải là làm cặn bã của xã hội, còn nếu vị trí thức nào muốn hợp pháp hóa nghề mại dâm, tôi đồng ý với điều kiện để cho mẹ họ, vợ họ, chị gái họ, em gái họ, con gái của họ đi làm nghề mại dâm đó trước tiên đi, làm gương cho xã hội trước tiên đi.
3.    Về phương diện tôn giáo tín ngưỡng:
Tôn giáo và tín ngưỡng là quyền tự do con người, là cách giáo dục để hướng con người làm thiện, sống thiện, xây dựng xã hội tốt đẹp, nhưng trong chủ nghĩa tư bản thì sao, vào thời đại văn minh khoa học kỹ thuật nhưng lại tồn tại khắp nơi nạn mê tín dị đoan và nạn buôn thần bán thánh. Karl Marx không bao giờ phản đối tôn giáo hay thế giới tâm linh, ông chỉ phủ nhận việc phó thác số phận cho một vị thần thánh nào đó hoặc coi thế giới này là do thần thánh tạo nên. Từ ngay thời Marx còn trẻ, ông đã quan sát rất nhiều thế giới tâm linh và ông cho rằng thế giới này là đồng thể, thống nhất ở tính vật chất nhưng nó gồm nhiều thế giới đan xen lại với nhau. Ông chỉ gạt bỏ đi cái phương diện duy tâm khách quan của thế giới tâm linh mà thôi, Marx cũng ủng hộ tôn giáo nếu nó là thứ tôn giáo hương thiện nhưng ông lại phủ nhận các hình thức tôn giáo để mê hoặc con người, để hương con người tới mê tín dị đoạn, theo ông đó chỉ là hình thức tôn giáo. Nhưng hiện nay thì sao, chúng ta tin vào thế giới tâm linh thì tin luôn cả vào những kẻ buôn thần bán thánh, khắp nơi không ít những kẻ tự xưng là thần thánh, họ mê hoặc con người, chỉ đạo mọi người để phục vụ cho mục đích cá nhân của họ, cho danh lợi của họ. Thứ tôn giáo này cũng chính là thuốc phiện của nhân dân, là thứ ru ngủ nhân dân làm họ quên đi thật sự họ là ai và họ cần làm gì. Vì vậy khi học thuyết của Marx xuất hiện ở phương Tây, phá vỡ cả trường phái duy tâm và duy vật cổ điển thì Engels đã ví như lần đầu tiên trong lịch sử con người, con người tìm lại chính mình là họ là ai, họ cần làm gì. Marx không tuyên chiến với tôn giáo mà ông tuyên chiến với thứ thuốc phiện của nhân dân ở trên, tôi cảm thấy đáng buồn khi hiện nay nhiều người lợi dụng thế giới tâm linh để mê hoặc mọi người, dãn họ vào con đường sai trái để phục vụ lợi ích cho chính những người đó. Tuy nhiên có lẽ chỉ có một vị thần duy nhất đang chi phối những mối quan hệ tôn giáo đó chính là vị thần Danh Lợi, họ vì danh lợi mà đem thế giới tâm linh ra đe dọa mọi người như nào là bùa chú, nào là áp vong, nào là thế hiện năng lực đặc biệt. Ẩn chưa đằng sau đó là gì, vẫn là Danh Lợi chi phối, nó mạnh đến mức mà Karl Marx đã từng nói, nếu di tích của các thánh chuyển hóa thành tiền được thì nó cũng được đem đi bán nốt. Nạn buôn thần bán thánh, xuất hiện nhan nhản ở các chùa chiền miếu mạo và đừng đằng sau nó vẫn là Tiền, là Danh Lợi. Trở lại cách đây hơn 100 năm, bài học lịch sử cho ta thấy Trung Quốc thời Mãn Thanh bị diệt vong, bị các nước khác xâm lược và đô hộ, vì sao, đó là vì Từ Hy Thái Hậu, Từ Hy Thái Hậu là ai, là người ko tín giáo dục đạo đức, không tin nhân dân, bà ta chỉ tin vào thần thánh, tin vào những điều mê tín vậy nên bà ta làm Trung Quốc mất nước. Hiện giờ cũng đang thế, ở Việt Nam, Phật giáo đang bị thương mại hóa, mất đi cái giáo dục nguyên bản của nó, Nho giáo thì suy đồi thay vào đó là sự xuất hiện của hàng chục đạo lạ với những Thánh Cô, Thánh Mẫu, Giáo Chủ với các năng lực đặc biệt hoặc có hoặc không thu hút hàng ngàn tín đồ, cung phụng, cũng dường cho họ, gây bất ổn xã hội. Vậy thì đã đến lúc chúng ta cần làm gì, cần phải khôi phục giáo dục truyền thống, khôi phục giáo dục đạo đức xã hội của Nho giáo, của Phật giáo, kết hợp với khoa học kỹ thuật để con người ta nhận thức rõ đâu là thế giới tâm linh, đâu là mê tín, để họ biết nghe lời phải, tránh điều trái không trở thành những kẻ cuồng tín hay phá hoại xã hội nữa. Đó chính là cái Marx muốn xây dựng ở xã hội chủ nghĩa, một thế giới mà con người sống đạo đức với nhau với sự lao động hăng say và không còn người bóc lột người nữa.
4.    Về phương diện kinh tế chính trị:
Tiếp theo là về phương diện kinh tế, có lẽ đây là phương diện mà chúng ta có thể lấy làm tự hào về với thành quản 30 năm đổi mới. Tuy nhiên 30 năm Đổi Mới kinh tế đã thay đổi rất nhiều, nhưng cũng có những không ít rủi ro từ đây, 30 năm ta đi theo đường lối kinh tế thị trường của Tư Bản Chủ Nghĩa thì đã có khá nhiều thành quả nhưng không ít những hiểm nguy. Bạn thử thấy xem dù 30 năm đã qua, nhưng Việt Nam vẫn không thể có nổi một nền công nghiệp đích thực, sản xuất vẫn chủ yếu nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài. Đời sống của người dân có khá lên nhưng tình trạng thất nghiệp, mất tư liệu sản xuất của nông dân lại đang diễn ra thường xuyên hơn, đó chính là biểu hiện của sự bần cùng hóa tư bản chủ nghĩa mà Karl Marx đã nói. Nói về bóc lột, bây giờ rất nhiều nhà kinh tế đã bảo làm gì còn bóc lột, nhưng bạn thử nghĩ xem công nhân nhà máy Samsung ở Bắc Ninh, ngày làm việc 12-14 tiếng, thời gian nghỉ cả 1 ngày là 15p buổi, sáng, 15p buổi chiều 1 tiếng buổi trưa, cuối tháng lương cũng chỉ tầm 3 triệu, vậy có thể bảo đó là không bóc lột chăng. Tôi thấy nhiều người Việt Nam cứ phê phán công nhân ăn Việt Nam ăn cắp, tôi không phủ nhận ăn cắp là xấu, cần phải phê phán nhưng nói đi cũng phải nói lại với mức độ bóc lột như vậy, họ nuôi thân còn chẳng đủ sống thì làm gì không xảy ra việc công nhân ăn cắp. Chính trong tập I bộ Tư Bản Karl Marx đã chỉ ra rằng, điều kiện vật chất thiếu thốn, cường độ lao động căng thẳng đã khiến cho việc đấu tranh tự phát giữa công nhân và chủ tư bản xuất phát trước tiên là ở ăn cắp, sau đó là bãi công rồi đình công, cái ông phân tích hoàn toàn không sai.
Một nước 30 năm là công nghiệp nhưng chưa thể có được công nghiệp hóa, điện khí hóa đúng nghĩa vì sao, một phần ta tiếp thu tư tưởng kinh tế tư bản, ta muốn xây dựng một nền kinh tế đi nhanh, nên ta chỉ chú trọng vào phát triển công nghiệp nhẹ và dịch vụ, không có công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng sản xuất máy móc không được chú ý. Vậy hệ quả là gì, đó là khoáng sản thì phải bán ra nước ngoài với giá rẻ, nhập khẩu linh kiện thì đắt mà lại phải lắp ráp, tại Việt Nam, giá trị thặng dư không cao hưởng lợi từ Việt Nam thì ít. Các chuyên gia IMF hay WB đến đây luôn tư vấn Việt Nam học theo những mô hình phát triển của Phillippine, của Thái Lan hay Indonesia là những mô hình kinh tế mà đang ở bẫy thu nhập trung bình, những quốc gia nghe theo tư vấn của họ, nhưng chính những người như John Perkin (1 sát thủ kinh tế) hay Joseph Stiglitz một nhà nghiên cứu kinh tế, chuyên gia kinh tế có lương tâm lại khuyên Việt Nam không nên đi theo mô hình đó. Tại sao WB hay IMF không khuyên Việt Nam đi theo con đường phát triển giống Nhật Bản, Trung Quốc vì họ lo sợ kinh tế Việt Nam sẽ lớn mạnh, sẽ ảnh hưởng đến chính các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ như kinh tế Trung Quốc bây giờ, chính vì vậy họ không khuyên chúng ta. Ngay trong bộ phim khủng hoảng kinh tế Inside Job các nhà báo có lương tâm đã chỉ ra những nhà kinh tế như Minskhin hay các nhà kinh tế nổi tiếng khác đã và đang nhận tiền của các ngân hàng Mỹ, các giới tài phiệt châu Âu để tư vấn mô hình phát triển sai cho các nước đang phát triển. Vì vậy các chuyên gia Mỹ khi vào đây, họ tư vấn Việt Nam phát triển theo hướng tư bản tài chính, tự do hóa tài chính để cho các ngân hàng nước ngoài có thể đầu tư, có thể tấn công nền tài chính non trẻ Việt Nam và gây ra khủng hoảng để họ hưởng lợi. Đó chính là các thủ đoạn của tư bản tài chính mà Karl Marx cũng đã miêu tả rất kỹ trong tập 3 cuốn Tư Bản Luận, nhưng vì chúng ta đã bỏ kinh tế Marx nên chúng ta không nhận ra điều đó. Nếu cứ theo đà phát triển này, thì tương lai kinh tế Việt Nam cũng sẽ phải chịu những cú sốc như khủng hoảng kinh tế 1997 ở châu Á, 1986 ở Mexico hay 2000 ở Achentina và gần đây nhất là khủng hoảng nợ công châu Âu. Đấy là tương lai mà Marx cũng đã vẽ ra cho những nền kinh tế thuộc địa, dù là thuộc địa kiểu cũ, hay kiểu mới hay là mới nổi như hiện nay. Trung Quốc đã biết điều này nên họ không đi theo những mô hình đó, họ tự xây dựng mô hình của chính họ, mô hình kinh tế thị trường, chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.

Trên đây chỉ là những vài dòng những suy nghĩ của tôi và tôi thấy hơn lúc nào hết Việt Nam đang phải đối mặt với quá nhiều nguy cơ, chúng ta có vàng trong tay mà không biết dùng vàng, có chủ nghĩa Marx Lenin mà không biết tận dụng, chính những lúc này là cần thiết để có thể học Marx, để áp dụng Marx cũng như là để dân tộc chuyển mình, để thay đổi vận mệnh của chính mình. Học Marx chính là để cải tạo thế giới theo đúng như quy luật của nó, để đời sống con người được tốt hơn ở chính đây. Đừng xa rời Marx mà lúc này cần nó hơn bao giờ hết, tôi viết bài này hy vọng có thể đánh thức lại chủ nghĩa Marx đã ngủ quên tại Việt Nam cũng như có thể thông qua bài này tìm đến những người nghiên cứu chủ nghĩa Marx đồng chí hướng với tôi. Đã có những đêm nằm cảm thấy đau khổ, rớt nước mắt vì những nguy cơ dân tộc đang phải đối diện, đã cảm thấy bất lực vì mình không đóng góp được gì cho đất nước, tôi vẫn làm, vẫn nuôi hy vọng ngày nào đó có thể dùng chính những học thuyết Marx giúp đỡ đất nước tôi, đất nước của những con người cùng khổ, đất nước của nhân dân lao động và giai cấp vô sản. Học Marx là để thay đổi vận mệnh của chính mình và quốc gia mình, tôi không thích tham gia vào những nhóm ghét phản động hay nói xấu chế độ cụ vì tôi thấy việc này cần thiết hơn rất nhiều và quan trọng hơn rất nhiều là việc tranh cãi trên mạng. Hy vọng lại có thể tìm thấy những người nghiên cứu Marx đồng chí hướng và hy vọng Đảng và Nhà nước tạo thêm nhiều điều kiện cho những người nghiên cứu chủ nghĩa Marx như tôi hoặc bao nười khác có thể cùng nhau nghiên cứu, xây dựng đất nước.

Kỷ niệm 196 năm ngày sinh của Karl Marx, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới.

Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2014

                                                                                                    TTCS

Chủ nghĩa Marx và sự chuyển mình thay đổi vận mệnh dân tộc

Kỷ niệm 196 năm ngày sinh của Karl Heinrich Marx (05/05/1818 – 05/05/2014)
Chủ nghĩa Marx và sự chuyển mình thay đổi vận mệnh dân tộc
Bài viết này được tôi viết ra nhân dịp kỷ niệm 196 năm, ngày sinh của Karl Heinrich Marx, người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Có lẽ cho đến nay vẫn còn có nhiều ý kiến trái chiều về Karl Marx và các học thuyết của ông tuy nhiên có một sự thật đó là chủ nghĩa Marx – Lenin đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giành độc lập của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại, kỷ nguyên mà các dân tộc có quyền tự quyết. Tuy nhiên đó chỉ là một trong những mục tiêu nhỏ nhoi mà chủ nghĩa Marx hướng tới, mục đích của chủ nghĩa Marx là hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, giàu mạnh và con người sống ở trong đó có quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền hạnh phúc. Rất nhiều học giả tư sản trên toàn thế giới coi những gì Marx viết ra là ảo tưởng, là xã hội không tưởng tuy nhiên liệu nó có không tưởng hay không, đó vẫn là một câu hỏi lớn mà chúng ta cần phải giải đáp. Kể từ năm 1991, khi mà Liên Xô sụp đổ đã dẫn đến việc sụp đổ của hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới khiến cho con người ta mất niềm tin vào chủ nghĩa Marx Lenin, người ta cho rằng các học thuyết của ông đã đi vào quên lãng. Những Đảng Cộng Sản trên toàn thế giới đã trở nên chùn bước trên con đường cách mạng nhưng ở đâu đó, vẫn nhen nhóm lên ngọn lửa của chủ nghĩa cộng sản, nó trải qua cái thời kỳ rực cháy của những năm 1844 cho đến 1975, thời điểm đầu tiên đánh dấu sự ra đời với bản Tuyên ngôn thế kỷ: Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản cho đến thời kỳ huy hoàng của Liên Xô 1975. Tất cả đã chấm dứt chăng, không thực sự thì phong trào Cộng sản vẫn đang hoạt động, nó âm ỷ như những đám lửa dưới bụi cỏ khô, chỉ đủ cơ hội là bùng lên thiêu cháy lấy toàn bộ khu rừng già cỗi của chủ nghĩa tư bản. Sau cơn mưa trời lại sáng, chủ nghĩa cộng sản bây giờ cũng giống như chủ nghĩa tư bản của thế kỷ 15, nó đang hoạt động trong thầm lặng và mạnh mẽ. Bóng ma chủ nghĩa cộng sản bây giờ không còn lan tỏa ở châu Âu nữa, nó đang vươn ra chính thế giới, Bóng ma đó giống như ác quỷ với chủ nghĩa tư bản nhưng nó là mặt trời chân lý đối với nhân dân lao động toàn thế giới. Tạm mượn vài câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Từ đó trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lý chói qua tim”. Chủ nghĩa tư bản hiện nay đang ở đỉnh cao của nó giống như chế độ phong kiến của thế kỷ 15, nhưng đỉnh cao rồi cũng sẽ phải qua, quy luật là vĩnh cửu, chẳng có thứ gì trường tồn mãi được cả. Những người cho rằng Chủ nghĩa tư bản không bị sụp đổ cũng giống như việc công nhận sự bất tử của con người vậy, nhưng thực tế thì không đã sinh ra thì phải có diệt vong. Đến Trái Đất thân yêu của chúng ta cũng phải có lúc diệt vong vậy thì con đẻ của nó, chủ nghĩa tư bản liệu có thể thoát khỏi quy luật đó chăng. Nói đến khái niệm sinh diệt là ta công nhận một sự thật, một quá trình vận động đối với vạn vật nhưng trong cái chung cũng có cái riêng, sinh diệt của con phù du chỉ là nửa ngày, sinh diệt của vi trùng thì tính đến từng giây, nhưng sinh diệt của một đời người có khi lại là 80 năm, sinh diệt của một hành tinh cũng là hàng tỷ năm. Vậy sinh diệt của một chế độ xã hội cũng vậy, nó có thể kéo dài hàng ngàn năm nhưng không thể trường kỳ vĩnh cửu. Kể từ năm 2008 trở đi, cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài đến nay đã hơn 7 năm, mặc dù truyền thông liên tục đưa tin tốt nhằm định hướng dư luận nhưng rất nhiều nhà nghiên cứu đã đặt một vấn đề lớn, đó chính là CNTB không hoàn hảo và nó đang phải đối mặt với những mâu thuẫn nội tại sâu sắc của chính nó, mâu thuẫn mà nó không thể giải quyết được, đó là mâu thuẫn sinh diệt, nó có thể giàu có, có thể nhiều sản phẩm khoa học kỹ thuật văn minh, nhưng nó cũng không thể tránh khỏi sinh – lão – bệnh – tử giống như con người vậy. Việc CNTB đi tìm cách duy trì sự sống của nó cũng giống như Tần Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất lão vậy, cố gắng thế nào rồi cũng sẽ về không cả thôi. Tuy nhiên khi viết bài viết nho nhỏ này, tôi không phải bàn về CNTB sẽ chết thế nào, vì đó là 1 vấn đề quá lớn, cần bạn phải nghiên cứu hàng chục năm hoặc thậm chí trăm năm trên những nền tảng kế thừa.
Cái tôi muốn viết là việc vận dụng những học thuyết của Marx trong việc thay đổi vận mệnh của chính dân tộc. Là một nhà triết học duy vật biện chứng, nên Marx không phó thác số phận của mình cho 1 đấng tối cao như các nhà duy tâm khách quan thường làm, ông cũng không phó thác số phận cho chính ý thức của con người, cái mà ngay chính bản thân nó cũng không kiềm chế được nó giống như chủ quan thường làm. Marx lại càng không phó thác số phận cho tự nhiên như cá nhà duy vật cổ điển vẫn làm. Cái Marx quan tâm chính là: “Các nhà triết học chỉ lo giải thích thế giới, vấn đề là cải tạo nó như thế nào”. Cải tạo thế giới hay không chính là cải tạo từ chính bản thân mình, bản thân con người mình. Việc cải tạo thế giới cũng vậy nó được thực hiện một cách có chủ đích và con người là chủ thể trong chính việc cải tạo thế giớ này. Nói đến đây nhiều người có thể cảm thấy phải chăng Marx duy tâm chủ quan. Sự thật không hề như vậy, theo triết học Marx thì con người và đại tự nhiên là một mối quan hệ chặt chẽ với nhau, con người sinh sống trong đại tự nhiên và chịu sự chi phối của các quy luật đại tự nhiên, chính vì thế con người chỉ có thể cải tạo thế giới khi họ hiểu đại tự nhiên là thế nào, các quy luật tự nhiên là thế nào. Marx không bao giờ dùng từ ngữ con người quyết định thế giới bằng ý thức của họ, cái Marx muốn ám chỉ tới đó chính là con người cải tạo thế giới theo chính các quy luật của nó. Nó đáng vận hành thế nào thì bạn vận hành nó thế đó, đừng cố gắng thay đổi nó theo cách mà bạn nghĩ, hãy cải tạo nó theo cách mà bạn hiểu. Sự cải tạo thế giới đơn giản trước hết chính là khắc phục những tổn thương mà con người đã làm với đại tự nhiên. Một ví dụ đơn giản đó là theo Marx, đất nào trồng được lúa thì trồng lúa, đất nào trồng được rau thì trồng rau, đất nào trồng được cây ăn quả thì trồng cây ăn quả, đó là cải tạo thế giới không phải là đem cây ăn quả trồng xuống bùn vẫn kết trái hay đem lúa trồng trên hoang mạc vẫn trĩu bông. Vì vậy cải tạo thế giới hay không phụ thuộc vào cái gọi là con người ta hiểu thế giới này đến đâu và hiểu bản thân họ đến đâu. Đừng ra ngoài tìm cầu một đấng thần linh hay đại tự nhiên gì cả, hãy thay đổi thế giới bắt đầu từ việc thay đổi chính bản thân mình. Có thể ở điểm này chủ nghĩa Marx mang đậm tính Phật giáo sâu sắc vì vậy có thể nhiều người vẫn cho rằng Marx chịu ảnh hưởng nhiều từ tư tưởng biện chứng của Hegels tuy nhiên chính ông ta lại thừa nhận ông chịu nhiều tư tưởng từ phép biện chứng của Phật giáo. Marx đã từng nói: ”Phép biện chứng bắt nguồn từ Phật giáo và kết thúc cũng ở Phật giáo” đồng thời Engels cũng đã từng khẳng đỉnh: ”Nếu có một phép biện chứng hoàn thiện thì đó là phép biện chứng trong Phật giáo”. Cũng như đạo Phật, chủ nghĩa Marx chú trọng vào chính hướng nội của con người, việc cải tạo thế giới thực sự phụ thuộc vào giác ngộ con người đến đâu, có chăng chủ nghĩa Marx chỉ khác Phật giáo về cách thể hiện. Vậy nên ta có thể thấy nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, Albert Einstein - một tín đồ Phật giáo thuần thành thì ông cũng đồng thời là một con người phấn đấu cho sự nghiệp chủ nghĩa xã và chính ông cũng nhận định sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi.
Bài viết này tôi sẽ chỉ đi vào phân tích một số vấn đề ngay trong chính dân tộc ta và chúng ta nên thay đổi nó như thế nào theo như những gì mà đã học được từ chủ nghĩa Marx. Đã hơn 100 năm trôi qua kể từ ngày học thuyết của Karl Marx và Engels ra đời, lịch sử đã có nhiều biến động nhưng những học thuyết này vẫn đứng vững và ngày càng chứng tỏ hơn cho ta thấy tính soi sáng trong việc dự báo xã hội tương lai. Chủ Nghĩa Tư Bản cũng đã thay đổi nhiều so với thời kỳ Marx sống nhưng không có nghĩa những gì Marx nói là sai, thậm chí đối chiếu và so sánh, ta càng cảm thấy kinh ngạc vì sự tiên đoán chính xác của ông. Chủ Nghĩa Tư Bản vẫn không hề thay đổi bản chất nó: “ra đời và lớn lên từ máu và bùn nhơ ở mỗi lỗ chân lông của nó”. Kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc là những hệ lụy của nó như thói mê tín dị đoan, sự lừa dối, suy đồi đạo đức xã hội, những kẻ cơ hội và hàng loạt các tệ nạn khác mà chúng ta sẽ phân tích dưới đây. Gần 30 năm đổi mới, bên cạnh việc đạt được một số thành tựu về kinh tế thì cái giá mà chúng ta đang phải trả là quá đắt.
1.    Về phương diện tư tưởng:
Có lẽ đây là phương diện mà tôi phải đề cập đến đầu tiên, có lẽ sau đổi mới 30 năm, đạt được một số thành tựu kinh tế nhất định mà đã có nhiều người thay đổi tư tưởng, thậm chí quay lưng lại với những lý tưởng mà chúng ta đã mong muốn vươn tới để thay đổi xã hội. Họ quay lại, cổ vũ cho các thế lực tư bản, phản đối chủ nghĩa xã hội, mong muốn đứng vào trong hàng ngũ tư bản để ăn trên thiên hạ, để có thể chà đạp lên người dân lao động và giai cấp vô sản. Hoặc kể đến có những người, không chịu chấp nhận sự thật là họ đã hiểu sai chủ nghĩa Marx, họ vin cớ vào sự sụp đổ của Liên Xô và sai lầm trong quá khứ để đạp đổ chủ nghĩa Marx, để tuyên truyền rằng Marx đã sai. Họ không dám nhìn nhận vào sự thật là họ đã sai hoặc vì chính họ vì lợi ích cá nhân, vì tư tưởng ích kỷ hẹp hòi mà họ sẵn sàng bán rẻ lại lương tâm của chính mình.Sự biến đổi về tư tưởng của các thành phần cơ hội và xét lại này ngay từ thời Marx đã có, ông cho thấy vì lợi ích cá nhân nào đó mà đã có những người từng đứng trong hàng ngũ vô sản đã sẵn sàng từ bỏ giai cấp của chính mình để đi về với hàng ngũ giai cấp tư sản, đàn áp lại các đồng chí của mình. Một trong những ví dụ điển hình có lẽ phải nói đến Lassalle, người học trò, người từng cứu giúp Marx nhưng cuối cùng đã không thể chiến thắng được cám dỗ chính trị của giai cấp tư sản Đức. Ngày nay chúng ta có thể thấy rõ những biến đổi về tư tưởng này thể hiện rất rõ, đặc biệt là ở tầng lớp trí thức tiểu tư sản hiện nay. Vì sao lại thể, Marx đã phân tích trong cuốn đấu tranh giai cấp ở Pháp, và cách mạng Đức, những tầng lớp trí thức tiểu tư sản không phải là những người trực tiếp bị bóc lột, nhưng họ lại có kiến thức, có tri thức, họ cho rằng họ xứng đáng đứng ở trên xã hội, họ là tầng lớp phải lãnh đạo xã hội, lãnh đạo mọi người, là tinh hoa của dân tộc vậy nên cần phải được tôn vinh họ. Họ coi thường giai cấp vô sản và nhân dân lao động, theo họ đó là những người hèn kém, những người ngu muội của xã hội và phải chịu sự lãnh đạo của họ. Chính cái tư tưởng như vậy đã khiến cho tầng lớp trí thức ngày càng có xu hướng xa rời nhân dân, xa rời giai cấp vô sản mà đứng về phía giai cấp tư sản. Vậy nên theo Marx trí thức là cũng phải đi cùng với nhân dân, cũng tham gia vào quá trình lao động sản xuất với nhân dân, có như vậy họ mới thấu hiểu được nỗi cùng khổ của nhân dân lao động, họ mới kiên định trên con đường cách mạng. Thời của chủ tịch Hồ Chí Minh, vì sao trí thức luôn sát cánh cùng nhân dân, kiên trì làm cách mạng chính vì họ đã được tôi luyện qua những thử thách chông gai cùng nhân dân lao động, cùng giai cấp vô sản. Có thể thấy Marx không chỉ nghĩ ra mà còn là người hành động rất quyết liệt, ông sống cùng với nhân dân lao động tại những khu nhà ổ chuột, những nơi nghèo đói từ Manchester cho tới London, ông và Engels ngày ngày vẫn luôn chứng kiến những cảnh người cơ cực, cũng trải qua những tháng ngày đói rét không có thức ăn. Ngay như Lenin hay chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta cũng vậy, cũng đã từng sống dưới tận cùng đáy của xã hội, chính vì thế họ hiểu và kiên trì với cách mạng đến cùng. Ước mơ của họ chỉ là làm sao để thay đổi cuộc sống, làm sao để không còn những người cùng khổ, không còn thấy nông dân chết đói trên đồng ruộng hay công nhân gục ngã nơi đường ray. Còn trí thức ngày nay của chúng ta thì sao, sinh ra đã no ấm, đi học thì được nhà nước đài thọ, nhà nước chu dưỡng cho đi học, cả đời ko phải cày cấy trên đồng ruộng hay làm công trong nhà máy, vì vậy những phần tử trí thức này sau khi đã thành tài thì quay lại phản bội lý tưởng, phản bổi lại chính con đường cách mạng, quả thực đáng xấu hổ.
Sự suy đồi về tư tưởng bắt nguồn trước hết từ sự phản bội lý tưởng cách mạng, ngày nay trên các phương tiện thông tin đại chúng bạn có thể thấy nhan nhản những vị trí thức này đòi xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ việc xây dựng xã hội bình đẳng, họ đòi xã hội phải phục tùng họ, phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa để có thể thực hiện việc người bóc lột người. Có một vị giáo sư dù đã ở cái tuổi gần đất xa trời nhưng ông tự cho mình cái quyền đòi phát biểu xã bỏ CNXH chỉ vì ông hận thù, ông hận nhà nước này, quốc gia này đã từng khiển trách ông vì những chính sách kinh tế sai lầm mà ông đưa ra. Ông lớn tiếng chửi rủa Marx mà không hiểu những cái ông gán cho Marx là cái chủ nghĩa xã hội tự ông nghĩ ra, không phải là chủ nghĩa xã hội Marx hướng tới, ông ko dám nhìn nhận vào thật sự mình đã sai, mình đã rất kém, mình học không đầy đủ vì ông còn phải giữ cái danh giáo sư, cái danh chuyên gia. Có thể thấy vì thế ông cầm đầu phong trào phản cách mạng ở nước ta, phản bội lý tưởng cách mạng mà ta đã dày công xây dựng. Điều này càng cho thấy sự ích kỷ, nhỏ nhen, tư tưởng cá nhân và cơ hội chủ nghĩa, sự mất nhân phẩm đạo đức trong ông giáo sư này chứ không làm cho ta thấy được trí tuệ gì của ông cả.
Xa hơn nữa, việc diễn biến tư tưởng này đã kéo theo việc diễn biến đòi xét lại lịch sử, đòi biến những kẻ bán nước thành anh hùng. Đất nước ta, là đất nước của hơn 80 năm độ hộ thực dân và 30 năm máu lửa kháng chiến, đất nước trải qua vô vàn đau thương, đất nước của những con người đã đỏ xương máu, hi sinh cả tuổi xuân, mạng sống hạnh phúc cá nhân chỉ để dành độc lập dân tộc cho đất nước. Đất nước đã từng bị chia cắt bởi những chính quyền bán nước cầu vinh, bởi những kẻ bán mình cho ngoại bang để mưu cầu lợi ích cá nhân. Nhưng một phong trào xét lại lịch sử đang đòi biến những kẻ bán nước thành anh hùng, đây là một điều không chấp nhận được trong lịch sử. Hòa giải dân tộc cần không, là vô cùng cần thiết nhưng ý nghĩa của hòa giải dân tộc là gì: đó là nhân dân ta có lòng khoan dung, chúng ta phải biết tha thứ cho những con người đã từng mắc lỗi, chúng ta sẵn sàng đón chào họ quay trở lại Việt Nam, làm lại từ đầu và trở thành công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhưng hòa giải dân tộc không có nghĩa là đổi trắng thay đen lịch sử, là biến Trần Ích Tắc thành Trần Hưng Đạo, hòa giải dân tộc không phải là để biến những người bán nước thành người yêu nước. Có những người đã từng sai lầm khi phản bội tổ quốc, nhưng sau đó lại thành anh hùng dân tộc đó là vì họ biết sám hối, biết quay đầu, biết phục thiện, đó là do ý nghĩ, tư tưởng, hành động của họ quyết định chứ không phải là việc của những nhà xét lại lịch sử. Bạn thử nghĩ xem nếu bạn xét lại lịch sử thế thì nó sẽ ảnh hưởng thế nào đến thế hệ sau này, đến việc giáo dục nhân cách đạo đức cho thế hệ trẻ. Người Trung Quốc trong lịch sử của họ có 2 nhân vật đối lập nhau, đó là Tần Cối và Nhạc Phi, họ dạy cho con cháu về lịch sử của cả Tần Cối lẫn Nhạc Phi rõ ràng đàng hoàng. Họ dạy thế nào, họ dạy Nhạc Phi cho con cháu họ để con cháu biết điều gì nên làm để báo ơn quốc gia, họ dạy Tần Cối cho con cháu họ để răn đe con cháu họ không được làm những điều bán đứng quốc gia, hãm hại trung lương. Nhưng một sự thật là hiện nay với phong trào xét lại lịch sử, thì chúng ta không chỉ dạy con cháu phản bội lý tưởng cách mạng mà còn dạy con cháu phản bội lại quốc gia. Vinh danh nhưng kẻ đã bán Hoàng Sa cho Trung Quốc có khác nào dạy cho con cháu rằng: “Các bạn à, không cần bảo vệ tổ quốc đâu, cứ bán nước đi, rồi cuối đời viết cuốn hồi ký bịa ra là từ kẻ thù dân tộc chúng ta sẽ thành anh hùng dân tộc ngay chứ đâu.”. Xét lại lịch sử là mầm mống của phản bội tổ quốc, là không có cái nguy nào bằng cái nguy này, dạy cho con cháu sống vô ơn. Tôi cũng vậy, phải hiểu rằng muốn làm người tốt trước hết là phải làm người trung nghĩa, dù quốc gia có thế nào, cũng chỉ gắng sức xây dựng quốc gia, không thể nào phản bội lại quốc gia được vì quốc gia cho ta cuộc sống, cho ta sự bảo hộ, bạn thử nghĩ xem, bạn là người ko quốc gia, ko hộ chiếu, vô gia cư đi đến đâu cũng bị khinh thường thì bạn có cảm thấy khổ sở không.
Đáng tiếc thay giờ đây, sự diễn biến tư tưởng đang ngày càng diễn ra sâu rộng tại Việt Nam mà chúng ta không có những tác động để thay đổi nó. Gần 30 năm đi theo kinh tế thị trường thì cũng là gần 30 năm Việt Nam đã đánh mất đi giáo dục truyền thống, giáo dục đạo đức, để giờ khiến cho sự lên ngôi của giáo dục là những tư tưởng xã hội phản động, cạy mạnh hiếp yếu, tư tưởng ích kỷ, lợi mình hại người, cái giá mà chúng ta phải trả là quá đắt quá đắt.
2.    Về phương diện văn hóa xã hội:
Trên phương diện văn hóa xã hội, Marx đã cho thấy, văn hóa của chủ nghĩa tư bản là một thứ văn hóa mà đạp đổ hết những văn hóa điền viên, những văn hóa truyền thống, tất cả chỉ còn là một thứ kết nối với nhau trong chủ nghĩa tư bản, đó chính là quan hệ tiền trao cháo múc. Nói đến văn hóa ta có thể thấy ngay hàng loạt những suy suy đồi của chính giới trẻ khi mà văn hóa của họ là văn hóa tự do kiểu Mỹ, họ coi thường người khác, ít kính trọng người già cả, họ đòi hòi một thứ văn hóa tôn sùng chủ nghĩa cá nhân. Có lẽ không lúc này như lúc này khi mà Việt Nam của tôi đang đối diện với ngày càng con người ta sống thờ ơ với nhau hơn, ngày càng họ sống không quan tâm đến nhau hơn, họ quan tâm nhiều đến lợi ích cá nhân hơn, quan tâm xem những mối quan hệ trong xã hội có đem lại tiền bạc cho họ không, đó là sự thật. Và cái gì đang cổ vũ cho thứ văn hóa như vậy, không ai khác chính là truyền thông, truyền thông thật sự đã biến đổi tư tưởng và nó là công cụ để làm hỏng văn hóa của một quốc gia. Ngay từ thời Marx, ông rất chú trọng vào tuyên truyền và truyền thông, ông viết báo vì ông biết lợi dụng sức mạnh báo chí để truyền bá những tư tưởng tốt đẹp, giúp mọi người hiểu được bản chất xấu xa của chủ nghĩa tư bản để có thể xây dựng xã hội mới. Truyền thông là một công cụ mà nếu người có tư tưởng đúng, tư tưởng chính nghĩa biết sử dụng thì sẽ rất tốt, nhưng nó lại là một công cụ có hại nếu rơi vào trong tay những kẻ thoái hóa về mặt tư tưởng. Điểm qua một vài thứ trên truyền thông bạn có thể thấy hiện nay:
Thứ nhất: truyền thông Việt Nam hiện nay đang bị quan hệ tiền trao cháo múc chi phối, nó chỉ quan tâm đến lợi nhuận, rõ ràng bạn thấy một tờ báo nào của Việt Nam thì những tin gì được đăng nhiều nhất, đó là tin cướp của, hãm hiếp, giết người, là tin khiêu dâm, là tin ngoại tình. Những tin này đem lại cho truyền thông lợi nhuận vì nó làm tăng số lượng người xem, làm cho họ kiếm được nhiều tiền từ quảng cáo. Trong khi đó một nền báo chí cách mạng hồi xưa của Việt Nam là nền báo chí mà tin giúp đỡ mọi người, tin người tốt việc tốt là được đăng nhiều nhất. Vì sao lại thế, bạn đăng càng nhiều tin tốt, thì người xem mới thấy xã hội tốt, họ mới dám làm việc tốt, bạn đăng càng nhiều tin xấu thì người tốt trong xã hội sẽ không dám làm người tốt, họ cho rằng xã hội này đày rẫy thứ xấu xa, và họ đã nghiêng theo cái xấu lúc nào không hay. Có thể thấy cách đây 30 năm, ngoại tình là thứ mà xã hội lên án, người ngoại tình luôn cảm thấy xấu hổ với luân lý đạo đức, với ý kiến xã hội còn giờ đây thì nó là mốt, là phong trào, là cách để thể hiện cái tôi cá nhân và truyền thông đang góp phần ca ngợi nó. Truyền thông của Việt Nam đã và đang trở thành cái ổ của tệ nạn xã hội và góp phần thúc đẩy tệ nạn xã hội.
Thứ hai: truyền thông ở Việt Nam đang xây dựng một thứ văn hóa luồn cúi kẻ mạnh, mà bắt nạ người yếu, thứ văn hóa hạ đạp thượng quỳ. Bạn có thể thấy khắp nơi nhan nhản trên các báo mạng, truyền thông Việt Nam hoặc dịch bài, hoặc viết bài ra sức đả phá các quốc gia bé nhỏ, ra sức chê bai các quốc gia yếu thế đang bị chèn ép, họ viết bài nói xấu từ Bắc Triều Tiên, cho đến Lybia, Iraq, thậm chí còn cả đất nước anh em Cuba, nước Nga, đất nước đã hiến dâng xương máu vì độc lập cho Việt Nam. Họ đã quên rằng cái ngày Việt Nam còn yếu thế, còn bị chèn ép thì những quốc gia này đã từng ủng hộ Việt Nam, đã từng giúp đỡ Việt Nam. Trong khi đó họ ca ngợi nước Mỹ, ủng họ Mỹ đem bom đạn và quân xâm lược đến các quốc gia này để giày xéo nhân dân các nước đó, để khủng bố, đàn áp, cưỡng đoạt tài nguyên và dựng nên những chế độ phát xít ở đây dưới cái vỏ bọc chính quyền tự do dân chủ kiểu Mỹ. Một thứ văn hóa hiếp đáp kẻ yếu, bợ đít kẻ mạnh đang ngày càng xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Những nhà báo như Ô sin Huy Đức, Đoan Trang, Nguyễn Anh Tuấn hay những blogger như Nguyễn Ngọc Lập, Nguyễn Xuân Diện đang và là đại diện cho cả một thế hệ những kẻ làm báo vô lương tâm, vô đạo đức, bợ đít kẻ mạnh và hiếp đáp kẻ yếu, chỉ biết chạy theo xã hội phù hoa, cướp bóc và làm giàu trên xương máu người khác.
Thứ ba: truyền thông Việt Nam đang cổ vũ cho thứ văn hóa ăn chơi Hàn Quốc, bạn có thể thấy phim Hàn Quốc, nhạc Hàn Quốc hay bài báo về diễn viên Hàn Quốc xuất hiện nhan nhản trên khắp các báo mạng, cổ vũ cho 1 thứ văn hóa ăn chơi, thứ văn hóa làm giàu bằng thủ đoạn, cho thứ văn hóa ích kỷ cá nhân. Chúng ta cứ trách cứ giới trẻ hàng ngày tại sao lại cuồng K-Pop mà bỏ quên chữ hiếu với cha mẹ, bỏ quên trách nhiệm với xã hội, với đất nước, đó chính là ở lỗi của chúng ta khi chúng ta hàng ngày tiêm nhiễm vào giới trẻ những bộ phim hay ca nhạc Hàn Quốc như vậy. Theo ý kiến ngu xuẩn của tôi thà chiếu phim lịch sử Trung Quốc còn hơn là phim Hàn Quốc vì nó còn dạy con người ta Trung, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu Thân Tôn Sư. Đừng trách giới trẻ cuồng K-POP khi chính chúng ta đang đầu độc chúng hàng ngày bằng thứ thuốc phiện đó. Bên cạnh đó truyền thông Việt Nam cũng đang làm mất đi văn hóa truyền thống, làm con người ta sống mất gốc, quên đi lịch sử dân tộc thông qua chính chương trình Giai Điệu Tự Hào. Việc họ mời những nhà phê bình, nhà phân tích nghệ thuật mà chẳng có tý am hiểu về lịch sử đã làm hỏng ý nghĩa nhân văn của chính những bài hát truyền thống cách mạng một thời, những nhà phê bình này chỉ biết nêu cái quan điểm cái tôi và phê phán, đả kích những tư tưởng đoàn kết, tư tưởng sống vì mọi người, tư tưởng xây dựng xã hội trong các bài hát đó. Có thể nói những con người không am hiểu về tư tưởng, văn hóa, đạo đức xã hội thì những sự phê bình của họ thật là lố bịch, nhưng truyền thông lại đưa lên như những nhà phê bình trí thức mà ko hiểu đó là đầu độc giới trẻ bởi những lối sống ích kỷ.
Thứ tư: sư tiêm nhiễm văn hóa tự do kiểu Mỹ lớn đến mức có những vị trí thức đòi hợp pháp hóa nghề mại dâm, đòi cho phép gái mại dâm làm việc công khai và ai trái ý kiến với họ thì họ cho rằng đó là đạo đức giả. Họ có hiểu rằng đó là việc suy đổi đạo đức hay không, họ có biết rằng gần 80% gái mại dâm không muốn làm cái nghề đốn mạt đó không, ai cũng vậy, có mưu cầu hạnh phúc, cũng muốn được xã hội tôn trọng chứ mấy ai muốn làm cái nghề mạt hạng vậy. Karl Marx trong Tư Bản Luận đã từng miêu tả sự khốn khổ của gái mại dâm, khi mà họ chính mình không có việc làm, phải đi làm công việc mạt hạng đó, bị khinh rẻ, ông chỉ ra một nguyên nhân sâu sắc chính là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản khiến cho nghề mại dâm càng ngày phổ biến, sự không được sở hữu tư liệu sản xuất khiến từ những xã hội có giai cấp đã đẻ ra cái nghề mại dâm đó. Vì vậy ta phải giúp họ, phải giúp họ có việc làm, trao cho họ tư liệu sản xuất, phải giáo dục lại họ để họ có thể làm người lại một lần nữa chứ không phải là làm cặn bã của xã hội, còn nếu vị trí thức nào muốn hợp pháp hóa nghề mại dâm, tôi đồng ý với điều kiện để cho mẹ họ, vợ họ, chị gái họ, em gái họ, con gái của họ đi làm nghề mại dâm đó trước tiên đi, làm gương cho xã hội trước tiên đi.
3.    Về phương diện tôn giáo tín ngưỡng:
Tôn giáo và tín ngưỡng là quyền tự do con người, là cách giáo dục để hướng con người làm thiện, sống thiện, xây dựng xã hội tốt đẹp, nhưng trong chủ nghĩa tư bản thì sao, vào thời đại văn minh khoa học kỹ thuật nhưng lại tồn tại khắp nơi nạn mê tín dị đoan và nạn buôn thần bán thánh. Karl Marx không bao giờ phản đối tôn giáo hay thế giới tâm linh, ông chỉ phủ nhận việc phó thác số phận cho một vị thần thánh nào đó hoặc coi thế giới này là do thần thánh tạo nên. Từ ngay thời Marx còn trẻ, ông đã quan sát rất nhiều thế giới tâm linh và ông cho rằng thế giới này là đồng thể, thống nhất ở tính vật chất nhưng nó gồm nhiều thế giới đan xen lại với nhau. Ông chỉ gạt bỏ đi cái phương diện duy tâm khách quan của thế giới tâm linh mà thôi, Marx cũng ủng hộ tôn giáo nếu nó là thứ tôn giáo hương thiện nhưng ông lại phủ nhận các hình thức tôn giáo để mê hoặc con người, để hương con người tới mê tín dị đoạn, theo ông đó chỉ là hình thức tôn giáo. Nhưng hiện nay thì sao, chúng ta tin vào thế giới tâm linh thì tin luôn cả vào những kẻ buôn thần bán thánh, khắp nơi không ít những kẻ tự xưng là thần thánh, họ mê hoặc con người, chỉ đạo mọi người để phục vụ cho mục đích cá nhân của họ, cho danh lợi của họ. Thứ tôn giáo này cũng chính là thuốc phiện của nhân dân, là thứ ru ngủ nhân dân làm họ quên đi thật sự họ là ai và họ cần làm gì. Vì vậy khi học thuyết của Marx xuất hiện ở phương Tây, phá vỡ cả trường phái duy tâm và duy vật cổ điển thì Engels đã ví như lần đầu tiên trong lịch sử con người, con người tìm lại chính mình là họ là ai, họ cần làm gì. Marx không tuyên chiến với tôn giáo mà ông tuyên chiến với thứ thuốc phiện của nhân dân ở trên, tôi cảm thấy đáng buồn khi hiện nay nhiều người lợi dụng thế giới tâm linh để mê hoặc mọi người, dãn họ vào con đường sai trái để phục vụ lợi ích cho chính những người đó. Tuy nhiên có lẽ chỉ có một vị thần duy nhất đang chi phối những mối quan hệ tôn giáo đó chính là vị thần Danh Lợi, họ vì danh lợi mà đem thế giới tâm linh ra đe dọa mọi người như nào là bùa chú, nào là áp vong, nào là thế hiện năng lực đặc biệt. Ẩn chưa đằng sau đó là gì, vẫn là Danh Lợi chi phối, nó mạnh đến mức mà Karl Marx đã từng nói, nếu di tích của các thánh chuyển hóa thành tiền được thì nó cũng được đem đi bán nốt. Nạn buôn thần bán thánh, xuất hiện nhan nhản ở các chùa chiền miếu mạo và đừng đằng sau nó vẫn là Tiền, là Danh Lợi. Trở lại cách đây hơn 100 năm, bài học lịch sử cho ta thấy Trung Quốc thời Mãn Thanh bị diệt vong, bị các nước khác xâm lược và đô hộ, vì sao, đó là vì Từ Hy Thái Hậu, Từ Hy Thái Hậu là ai, là người ko tín giáo dục đạo đức, không tin nhân dân, bà ta chỉ tin vào thần thánh, tin vào những điều mê tín vậy nên bà ta làm Trung Quốc mất nước. Hiện giờ cũng đang thế, ở Việt Nam, Phật giáo đang bị thương mại hóa, mất đi cái giáo dục nguyên bản của nó, Nho giáo thì suy đồi thay vào đó là sự xuất hiện của hàng chục đạo lạ với những Thánh Cô, Thánh Mẫu, Giáo Chủ với các năng lực đặc biệt hoặc có hoặc không thu hút hàng ngàn tín đồ, cung phụng, cũng dường cho họ, gây bất ổn xã hội. Vậy thì đã đến lúc chúng ta cần làm gì, cần phải khôi phục giáo dục truyền thống, khôi phục giáo dục đạo đức xã hội của Nho giáo, của Phật giáo, kết hợp với khoa học kỹ thuật để con người ta nhận thức rõ đâu là thế giới tâm linh, đâu là mê tín, để họ biết nghe lời phải, tránh điều trái không trở thành những kẻ cuồng tín hay phá hoại xã hội nữa. Đó chính là cái Marx muốn xây dựng ở xã hội chủ nghĩa, một thế giới mà con người sống đạo đức với nhau với sự lao động hăng say và không còn người bóc lột người nữa.
4.    Về phương diện kinh tế chính trị:
Tiếp theo là về phương diện kinh tế, có lẽ đây là phương diện mà chúng ta có thể lấy làm tự hào về với thành quản 30 năm đổi mới. Tuy nhiên 30 năm Đổi Mới kinh tế đã thay đổi rất nhiều, nhưng cũng có những không ít rủi ro từ đây, 30 năm ta đi theo đường lối kinh tế thị trường của Tư Bản Chủ Nghĩa thì đã có khá nhiều thành quả nhưng không ít những hiểm nguy. Bạn thử thấy xem dù 30 năm đã qua, nhưng Việt Nam vẫn không thể có nổi một nền công nghiệp đích thực, sản xuất vẫn chủ yếu nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài. Đời sống của người dân có khá lên nhưng tình trạng thất nghiệp, mất tư liệu sản xuất của nông dân lại đang diễn ra thường xuyên hơn, đó chính là biểu hiện của sự bần cùng hóa tư bản chủ nghĩa mà Karl Marx đã nói. Nói về bóc lột, bây giờ rất nhiều nhà kinh tế đã bảo làm gì còn bóc lột, nhưng bạn thử nghĩ xem công nhân nhà máy Samsung ở Bắc Ninh, ngày làm việc 12-14 tiếng, thời gian nghỉ cả 1 ngày là 15p buổi, sáng, 15p buổi chiều 1 tiếng buổi trưa, cuối tháng lương cũng chỉ tầm 3 triệu, vậy có thể bảo đó là không bóc lột chăng. Tôi thấy nhiều người Việt Nam cứ phê phán công nhân ăn Việt Nam ăn cắp, tôi không phủ nhận ăn cắp là xấu, cần phải phê phán nhưng nói đi cũng phải nói lại với mức độ bóc lột như vậy, họ nuôi thân còn chẳng đủ sống thì làm gì không xảy ra việc công nhân ăn cắp. Chính trong tập I bộ Tư Bản Karl Marx đã chỉ ra rằng, điều kiện vật chất thiếu thốn, cường độ lao động căng thẳng đã khiến cho việc đấu tranh tự phát giữa công nhân và chủ tư bản xuất phát trước tiên là ở ăn cắp, sau đó là bãi công rồi đình công, cái ông phân tích hoàn toàn không sai.
Một nước 30 năm là công nghiệp nhưng chưa thể có được công nghiệp hóa, điện khí hóa đúng nghĩa vì sao, một phần ta tiếp thu tư tưởng kinh tế tư bản, ta muốn xây dựng một nền kinh tế đi nhanh, nên ta chỉ chú trọng vào phát triển công nghiệp nhẹ và dịch vụ, không có công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng sản xuất máy móc không được chú ý. Vậy hệ quả là gì, đó là khoáng sản thì phải bán ra nước ngoài với giá rẻ, nhập khẩu linh kiện thì đắt mà lại phải lắp ráp, tại Việt Nam, giá trị thặng dư không cao hưởng lợi từ Việt Nam thì ít. Các chuyên gia IMF hay WB đến đây luôn tư vấn Việt Nam học theo những mô hình phát triển của Phillippine, của Thái Lan hay Indonesia là những mô hình kinh tế mà đang ở bẫy thu nhập trung bình, những quốc gia nghe theo tư vấn của họ, nhưng chính những người như John Perkin (1 sát thủ kinh tế) hay Joseph Stiglitz một nhà nghiên cứu kinh tế, chuyên gia kinh tế có lương tâm lại khuyên Việt Nam không nên đi theo mô hình đó. Tại sao WB hay IMF không khuyên Việt Nam đi theo con đường phát triển giống Nhật Bản, Trung Quốc vì họ lo sợ kinh tế Việt Nam sẽ lớn mạnh, sẽ ảnh hưởng đến chính các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ như kinh tế Trung Quốc bây giờ, chính vì vậy họ không khuyên chúng ta. Ngay trong bộ phim khủng hoảng kinh tế Inside Job các nhà báo có lương tâm đã chỉ ra những nhà kinh tế như Minskhin hay các nhà kinh tế nổi tiếng khác đã và đang nhận tiền của các ngân hàng Mỹ, các giới tài phiệt châu Âu để tư vấn mô hình phát triển sai cho các nước đang phát triển. Vì vậy các chuyên gia Mỹ khi vào đây, họ tư vấn Việt Nam phát triển theo hướng tư bản tài chính, tự do hóa tài chính để cho các ngân hàng nước ngoài có thể đầu tư, có thể tấn công nền tài chính non trẻ Việt Nam và gây ra khủng hoảng để họ hưởng lợi. Đó chính là các thủ đoạn của tư bản tài chính mà Karl Marx cũng đã miêu tả rất kỹ trong tập 3 cuốn Tư Bản Luận, nhưng vì chúng ta đã bỏ kinh tế Marx nên chúng ta không nhận ra điều đó. Nếu cứ theo đà phát triển này, thì tương lai kinh tế Việt Nam cũng sẽ phải chịu những cú sốc như khủng hoảng kinh tế 1997 ở châu Á, 1986 ở Mexico hay 2000 ở Achentina và gần đây nhất là khủng hoảng nợ công châu Âu. Đấy là tương lai mà Marx cũng đã vẽ ra cho những nền kinh tế thuộc địa, dù là thuộc địa kiểu cũ, hay kiểu mới hay là mới nổi như hiện nay. Trung Quốc đã biết điều này nên họ không đi theo những mô hình đó, họ tự xây dựng mô hình của chính họ, mô hình kinh tế thị trường, chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.

Trên đây chỉ là những vài dòng những suy nghĩ của tôi và tôi thấy hơn lúc nào hết Việt Nam đang phải đối mặt với quá nhiều nguy cơ, chúng ta có vàng trong tay mà không biết dùng vàng, có chủ nghĩa Marx Lenin mà không biết tận dụng, chính những lúc này là cần thiết để có thể học Marx, để áp dụng Marx cũng như là để dân tộc chuyển mình, để thay đổi vận mệnh của chính mình. Học Marx chính là để cải tạo thế giới theo đúng như quy luật của nó, để đời sống con người được tốt hơn ở chính đây. Đừng xa rời Marx mà lúc này cần nó hơn bao giờ hết, tôi viết bài này hy vọng có thể đánh thức lại chủ nghĩa Marx đã ngủ quên tại Việt Nam cũng như có thể thông qua bài này tìm đến những người nghiên cứu chủ nghĩa Marx đồng chí hướng với tôi. Đã có những đêm nằm cảm thấy đau khổ, rớt nước mắt vì những nguy cơ dân tộc đang phải đối diện, đã cảm thấy bất lực vì mình không đóng góp được gì cho đất nước, tôi vẫn làm, vẫn nuôi hy vọng ngày nào đó có thể dùng chính những học thuyết Marx giúp đỡ đất nước tôi, đất nước của những con người cùng khổ, đất nước của nhân dân lao động và giai cấp vô sản. Học Marx là để thay đổi vận mệnh của chính mình và quốc gia mình, tôi không thích tham gia vào những nhóm ghét phản động hay nói xấu chế độ cụ vì tôi thấy việc này cần thiết hơn rất nhiều và quan trọng hơn rất nhiều là việc tranh cãi trên mạng. Hy vọng lại có thể tìm thấy những người nghiên cứu Marx đồng chí hướng và hy vọng Đảng và Nhà nước tạo thêm nhiều điều kiện cho những người nghiên cứu chủ nghĩa Marx như tôi hoặc bao nười khác có thể cùng nhau nghiên cứu, xây dựng đất nước.

Kỷ niệm 196 năm ngày sinh của Karl Marx, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới.

Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2014

                                                                                                    TTCS