2. ANH SINH VIÊN Ở BON
Vào giữa tháng mười 1835, Các Mác rời thành phố Tơ-ria, xuôi dòng
sông Ranh và Mô-den bằng tầu thủy, đi Bon. Theo ý muốn của cha, Mác phải nghiên
cứu luật học ở đó.
Thành phố Bon to hơn Tơ-ria một ít. Cuộc sống ở đây hoàn toàn do
trường Đại học tổng hợp với 700 sinh viên của nó chi phối. Trường Đại học tổng
hợp đã làm cho Bon trở thành trung tâm tinh thần của tỉnh Ranh nước Phổ, nhưng
đã có những bóng đen u ám bao phủ lên đời sống tinh thần ở Bon, cũng như trên
toàn nước Đức.
Nếu vào đầu những năm 30, cuộc cách mạng tháng Bảy ở Pa-ri đã khơi
dậy trong nhân dân Đức những niềm hy vọng mới là sự thống trị phong kiến sắp kết
thúc, thì chẳng bao lâu sau đó, những ước mơ này đã phải tiêu tan. Và mặc dầu ở
vương quốc Xắc-xơn, ở đại công quốc Ghéc-xen, ở công quốc Bơ-ra-un-sơ-vich và
những nơi khác, tình hình đã tiến tới khởi nghĩa vũ trang, trong đó có cả những
người tiểu tư sản, nông dân và sinh viên, và đặc biệt là nhiều thợ học việc
tham gia; mặc dầu trong nhiều cuộc biểu tình, trước hết trong cuộc biểu tình
ngày 27 tháng Năm 1832 ở lâu đâì Hăm-bắc tại Pơ-phan-xơ, các đại biểu của giai
cấp tư sản tiến bộ đã đòi phải có “một Tổ quốc Đức tự do”, song phong trào này
vẫn tản mạn và không có một sự lãnh đạo kiên quyết và tập trung. Bọn phản động
lại truy nã tất cả những tất cả những gì tỏ ra có xu hướng tiến bộ và tự do.
Hàng ngàn người dân chủ trung thực bị bắt vào tù hoặc bị trục xuất ra khỏi đất
nước. Chế độ kiểm duyệt ngày càng ngặt nghèo hơn, mọi cuộc hội họp của quần
chúng đều bị cấm đoán, những người đeo quân hiệu đen – đỏ - vàng – tượng trưng
cho nền cộng hòa dân chủ - đều bị trừng phạt theo pháp luật. Các Nhà nước trong
Liên bang Đức nhận trao trả cho nhau tất cả những người cư trú chính trị; số lượng
báo chí bị hạn chế, tất cả mọi tổ chức chính trị đều bị cấm. Các sinh viên tiến
bộ, các đoàn viên thanh niên lên tiếng đòi cải cách dân chủ và thống nhất quốc
gia Đức, đều bị theo dõi, đánh đập và bị bắt giam.
Khi Mác đến Bon thì các vụ lùng sục và theo dõi của cảnh sát đang
sôi động. Thay vào đoàn thanh tiên là các tổ chức sinh viên trung lập về chính
trị gọi là các hội đồng hương, gồm toàn sinh viên cùng một đia phương. Mác gia
nhập hội đồng hương của mình, và đến học kỳ sau thì được bầu vào chủ tịch đoàn
của hội đồng hương Tơ-ria.
Mác bắt tay vào học tập rất hăng say. Anh sinh viên ấy ghi tên nghe
giảng đến chín môn, chủ yếu về những vấn đề luật học và cả văn học, lịch sử,
nghệ thuật và văn hóa, đến nỗi bố phải cho anh: “Theo ý cha thì chín môn hơi
nhiều đấy. Cha muốn là con đừng học quá sức chịu đựng của mình về tinh thần và
thể xác. Nhưng nếu con thấy như vậy không vất vả quá thì cũng được. Biển học
thì mênh mông, mà thời gian thì có hạn”.[1]
Mác không thấy khó. Nhưng chẳng bao lâu Mác hiểu là phần lớn những
khóa học này không đáp ứng yêu cầu của Mác. Vì thế, Mác ít đi nghe giảng hơn và
bắt đầu học theo chương trình của mình định ra. Và sau này, ở Béc-lin, cách học
đó đã trở thành phương pháp học tập căn bản của Mác.
Qua thư từ của bố, người ta thấy rõ anh sinh viên trẻ tuổi này hoàn
toàn không phải là một con mọt sách. Cuộc sống ở Bon giàu màu sắc, hình vẻ lãng
mạn đọc đáo, đến nỗi Mác cũng bị cuốn vào cơn xoáy lốc đó. Trong cuộc đời sinh
viên, đôi khi cũng có những chất men say vui vẻ. Mác, cũng như những người quê ở
thung lũng Mô-den, không phải là người tuyệt đối không uống rượu. Thí dụ, vào
tháng Sáu 1836 Mác đã bị ban giám hiệu phạt giam một ngày vì say rượu và phá rối
yên tĩnh ban đêm. Thực ra, sự trừng phát đó không có gì là quá nghiên khắc, bởi
vì các bạn vẫn được vào thăm, và do đó cuộc vui vẫn cứ tiếp tục ngay cả ở trong
phòng giam. Tất nhiên, cuộc đời sinh viên không phải có hát hò và tiệc tùng.
Không phải tất cả ác sinh viên xuất thân từ môi trường tư sản đều ngoan ngoãn
chịu đựng mọi sự hoạnh họe của bọn cảnh sát và sự kênh kiệu của các sinh viên
quý tộc. Nhiều người đã phản kháng, họ đáp lại sự thô bạo của con cái bọn đại địa
chủ quý tốc bằng sự nhạo báng, đôi khi bằng qua đấm hay thanh gươm. Anh thanh
niên Mác cũng thuộc số người như vậy. Mác không những chỉ gia nhập nhóm các nhà
thơ trẻ - mà ở đây chắc chắn còn có những mục đích chính trị ẩn sau những hoài
bão văn học – mà còn đấu súng, hình như với một tên thuộc dòng dói quý tộc nào
đó, vào tháng Tám 1836.
Ông bố lo lắng về tình hình đó và đã báo cho ban giám hiệu trường Đại
học tổng hợp là con trai ông sẽ học tiếp ở Béc-lin, ngay từ khi Mác chưa học hết
năm thứ nhất ở Bon.
Nếu vào năm 1835 anh thanh niên đang chuẩn bị làm sinh viên, tò mò
và nóng lòng chờ đợi một cuộc sống mới, tự lập ở Bon, không xa thành phố quê
hương bao nhiêu, thì bây giờ trước chuyến đi Béc-lin, mọi sự lại khác hẳn. Lần
này, việc từ biệt thành Tơ-ria đối với Mác rất nặng nề, bởi vì Mác phải xa cách
lâu dài con người mà Mác yêu thương với tất cả tâm hồn.
Tình bạn và cảm tình giữa Mác và Gien-ni phôn Vét-pha-len đã ngày
càng trở nên đậm đà và chuyển thành tình yêu sâu sắc. Gien-ni không những có một
sắc đẹp tuyệt vời, mà còn có một bản lĩnh và trí óc thông minh khác thường. Cuối
mùa hạ năm 1836, khi còn ở nhà bố mẹ, Mác đã cầu hôn với người yêu. Gien-ni hứa
hôn với Mác. Khi đó Mác vừa mười tám. Đối với quan điểm đạo đức thời bấy giờ
thì việc này thật là lạ, chưa từng có. Một cô gái quý tộc trẻ trung, “nữ hoàng
của các vũ hội”, người đẹp nhất thành Tơ-ria, có rất nhiều chàng trai theo đuổi
và có khả năng lấy được “một đám khá giả”, thế mà lại dám hành động trái với mọi
khái niệm cổ truyền của xã hội phong kiến và tư sản, đem gửi gắm tấm thân cho
con trai một nhà tư sản mà không cho bố mẹ biết, cũng không hề đắn đo suy nghĩ
về cái gì sẽ đến với cô trong cuộc sống tương lai bên cạnh Mác, Mác và Gien-ni
cũng tự cảm thấy – trong niềm hạnh phúc chứa chan – là hành động của mình thật
khác thường. Bởi vì hiện giờ, Mác chưa thể nghĩ đến chuyện nói chính thức với vị
cố vấn chính phủ Phôn Vét-pha-len về việc cầu hôn Gien-ni. Vì thế, lúc đầu chỉ
có cho Mác biết việc này. Hai cha con tin rằng ông Hen-rich Mác sẽ chuẩn bị được
tinh thần cho bố mẹ Mác để hai ông bà tán thành việc hai trẻ kết hôn.
Ông Hen-rich Mác đã làm được việc đó, tin tưởng ở tình yêu nghiêm
túc của hai con và bản tính mạnh mẽ của Mác. Được cha mẹ đồng ý, Gien-ni cảm
htaays như trút được gánh nặng đã trĩu trong lòng, nhưng dầu vậy, bảy năm xa
cách đằng đẵng và chung thủy đợi chờ, không phải dễ dàng đối với đôi bạn tình.
Hơn nữa, người anh khác mẹ của Gien-ni, Phéc-đi-năng phôn Vét-pha-len, một kẻ rất
mực hám danh, sau này trở thành bộ trưởng Bộ Nội vụ Phổ, vẫn thường xuyên biến
cuộc sống của nàng thành địa ngục.
4. CUỘC ĐỌ SỨC VỚI "TRIẾT HỌC THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI”
Các Mác đi Béc-lin vào tháng Mười 1836, Mác đi mất năm ngày trên một
chiếc xe ngựa chở thư: đường xe lửa bấy giờ còn chưa có. Nhưng việc đi lại đã dễ
hơn mấy năm trước nhiều. Những vụ khám xét của thuế quan trước kia khiến cho du
khách mất biết bao thì giờ, bực bội và phải dốc nhẹ túi tiền, thì nay hâu như
không còn xảy ra nữa. Liên đoàn thuế quan Đức, thành lập năm 1834 dưới quyền
lãnh đạo của nước Phổ, đã phá bỏ các hàng rào thuế quan giữa các quốc gia Đức
riêng biệt. Nhưng biết bao tòa nhà của các sở thuế quan còn đứng sừng sững kia,
tự như nhắc nhở rằng tình trạng bị chia sẻ về chính trị của nước Đức còn chưa
khắc phục được. Nền công nghiệp ở nước Đức không thể phát triển và mở rộng một
cách tự do, nếu không có một hệ thống giao thông thống nhất, không có một thị
trường thống nhất. Giai cấp tư sản muốn xây dựng những nhà máy mới, muốn nhận
nguyên liệu và sức lao động, muốn bán hàng hóa để tăng lợi nhuận mà không bị
các biên giới trên nội địa nước Đức cản trở. Vì thế, giai cấp tư sản đã đấu
tranh chống tình trạng phân chia của nước Đức và chống các đặc quyền phong kiến.
Giai cấp tư sản, vì lợi ích của bản thân, cần một thị trường quốc gia thống nhất,
cố phấn đấu để thống nhất nước Đức.
Mác tới Béc-lin với ý định dứt khoát là phải kiên trì học tập và
làm việc. Ở đây ngự trị một không khí khác hẳn. Bon là một thành phố nhỏ, còn
Béc-lin thì có hơn 300.000 người; trường Đại học tổng hợp Bon có gần 700 sinh
viên, còn trường Béc-lin đông gấp ba. Ở Bon, trường Đại học tổng hợp quyết định
cuộc sống và bộ mặt thành phố, còn ở Béc-lin thì là triều đình và chế độ quân
phiệt Phổ. Ở Bon, hầu như không có sinh viên nào tránh được những tiệc rượu nhỏ
hàng ngày, còn ở Béc-lin thì có thể mặc sức học tập, tránh được mọi sự ồn ào
phiền nhiễu. “So với ngôi nhà lao động ở đây thì các trường Đại học tổng hợp
khác giống hệt những quán rượu”[2],
đó là ý kiến của nhà triết học Lút-vich Phơ-bách về trường đại học tổng hợp
Béc-lin. Ở Béc-lin không có những hội đồng hương, hoặc những đoàn thể sinh viên
khác; những tổ chức này bị nhà vua cấm.
Thủ đô nước Phổ khác với thành phố trên bờ sông Ranh cả về quan hệ
kinh tế. Mặc dầu ở Béc-lin sản xuất tiểu thủ công còn chiếm ưu thế, song nền
công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã bắt đầu phát triển vững chắc ở đây, chủ yếu là ở
ngoại ô thành phố. Trong vài chục năm nó thay đổi hoàn toàn tính chất của thành
phố vốn là đại bản doanh và thủ đô của bọn đại địa chủ quý tốc: cùng với sự
giàu có của tư bản mới là nạn nghèo đói khủng khiếp mới ngày càng tăng với nhịp
độ nhanh hơn; cùng với giai cấp tư sản công nghiệp trẻ tuổi, ở Đức phải hình
thành một giai cấp mới – giai cấp vô sản. ở Anh và Pháp giai cấp vô sản đã hoạt
động độc lập.
Nhưng thế lục phản động phong kiến vẫn còn thống trị, vì thế trước
hết phải giải nước Đức khỏi những mối liên hệ phong kiến.
Ở Đức, các cuộc cải cách tư sản cần thiết, được thực hiện trong
hoàn cảnh rất phức tạp. trái với nước Anh và nước Pháp, là những nước đã tồn tại
từ lâu như những quốc gia thống nhất và ở đó đã có thị trường quốc gia, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Đức hình thành hết sức chậm. Điều đó trước hết
là do tình trạng chia sẻ đất đai chi phối, và vì vậy các quan điểm chính trị của
giai cấp tư sản Đức không đồng nhất – gọi là chủ nghĩa tự do – và các hoạt động
chính trị của nó cũng không triệt để. Nếu trước những năm 30 của thế kỷ XĨ,
giai cấp tư sản Đức còn chưa trưởng thành và chưa đủ sức mạnh đẻ tiêu diệt chế
độ phong kiến về mặt chính trị, thì dầu sao nó cũng đã chuẩn bị cho cuộc cách mạng
tư sản về mặt tư tưởng. Vấn đề này được biểu hiện trong văn học cổ điển Đức, và
trước hết trong triết học cổ điển cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Những người
đại diện của giai cấp tư sản đã hướng vũ khí phê bình, nhất là trong lĩnh vực
tôn giáo, vào chính ngay kẻ thù mà giai cấp tư sản đấu tranh trong lĩnh vực
chính trị, tức là ào giai cấp quý tộc phong kiến đần độn và thiển cận.
Tất nhiên “cuộc cách mạng triết học” này vấp phải sức phản kháng
mãnh liệt nhất của ccs nhà tư tưởng thuộc chế độ phong kiến. Tư tưởng và tác phẩm
của những người đại diện xuất sắc nhất của triết học cổ điển Đức – Im-ma-nu-in
Căng, I. Ô-gan-Gốt-líp Phi-xte, Ghê-oócs Vin-hem Phơ-ri-đơ-rich Hê-ghen và
Lút-vich Phơ-bác – tất nhiên không những chỉ phản ánh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
tư bản đang lên và trật tự phong kiến đã lỗi thời, mà còn phản ánh cả tính chất
không triệt để về chính trị của giai cấp tư bản Đức còn non trẻ. Nhưng dầu sao
những tư tưởng và tác phẩm ấy cũng đã mở đường cho cuộc cải cách tư sản ở Đức.
Vào thời kỳ anh thanh niên Mác tới Bén-lin thì Căng và Phi-xte đã
chết từ lâu, Hê-ghen cũng không còn nữa, nhưng những tư tưởng của họ nhất là của
Hê-ghen hãy còn thống trị trong giới trí thức Đức. Trường Đại học tổng hợp
Béc-lin là trung tâm các cuộc tranh luận về tư tưởng. Hê-ghen đã dạy ở đây từ
năm 1818 đến năm 1831. Và bây giờ, vào giữa những năm 30, các môn đệ của ông
còn đang lãnh đạo nhiều bộ môn.
Ngày 22 tháng 10 năm 1836, Mác ghi tên vào học khoa luật. Mác hỏi kỹ
về các bài giảng và tìm chỗ ở gần trường Đại học, tại số nhà 61, phố Mít-ten.
Sau khi làm tròn nghĩa vụ đi thăm một số ban bè của bố một cách miễn cưỡng, Mác
bắt tay vào học tập với một nghị lực lớn lao. Mác ghi tên nghe ba khóa trình:
luật hình, lịch sử luật La-mã và nhân chủng học. Ngay từ khi mới bắt đầu học ở
Béc-lin, Mác đã tập trung vào việc tự nghiên cứu các sách chuyên môn và các nguồn
tài liệu. Phương pháp làm việc như vậy có hiệu quả đến mức những năm sau, Mác hầu
như không đi nghe giảng nữa.
Chỉ ít lâu sau, việc nghiên cứu luật đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu
so với việc học triết. “Tôi buộc phải nghiên cứu luật học, và trước hết thấy muốn
thử sức mình trong triết học”[3].
Mác đã viết về thời kỳ này như vậy. Thật thế, bây giờ anh sinh viên Mác bắt đầu
tìm tỏi ráo riết thế giới quan nào có thể làm cơ sở vững chắc cho cả các công
trình nghiên cứu khoa học, cả các chính kiến của anh.
Nhưng lúc đầu, như anh đã viết cho bố, trạng thái tâm hồn bị xáo động
bởi những nỗi hồi hộp “của tình yêu… say đắm” đã khiến anh không thể hiến mình
trọng vẹn cho việc học tập khoa học. Như Mác đã thú nhận với bố, xa quên hương
và xa “Gien-ni tuyệt diệu” của mình. Mác cảm thấy “lo lắng thật sự”[4].
Không phải tính ghen tuông làm cho Mác khổ sở: Mác không hề nghi ngò tình yêu của
Gien-ni. Nhưng chỉ có một ý nghĩ về những năm dài trước mắt phải xa cách
Gien-ni cũng đã như là hòn đá tảng đè nặng lên trái tim Mác.
Và anh thanh niên Mác đã làm cái việc thông thường của các chàng
trai đang yêu là làm thơ, trong đó Mác cố miêu tả tình cảm và tâm trạng của
mình. Những bài thơ ấy đã chứng tỏ hồi ấy Mác say mê thơ ca dân gian Đức và có
làm quen với thơ ca của Hen-tich Hai-nơ và A. Đe-be phôn Sa-mit-xô. Phần lớn
các bài thơ Mác đều viết về Gien-ni, về nỗi buồn nhớ Gien-ni, nhưng cũng có
không ít bài biêu tả thế giới tinh thần và khát vọng hành động của Mác:
Nào chúng ta lên đường
Tuy đường xa gian khổ
Để đừng sống lắt lay
Vô vị đời cỏ cây
Không thể sống bê tha
Trong biếng lười nhục nhã
Hùng mạnh thay con người
Đầy ước mơ gan dạ.[5]
Mác nhận thấy ngay là các bài thơ đầu tay của mình chẳng có giá trị
văn học gì cho lắm và trước hết, đó là một hình thức tự nhận thức bản thân. Mác
viết cho bố: “Chúng ta vãn muốn xây đài kỷ niệm cho những gì đã từng sống qua một
lần để cho nó lại có được trong tình cảm của ta cái vị trí mà nó đã mất trong
khi diễn ra thành hành động”[6].
Nhưng thả mình trong tình cảm và ước mơ, không phải là công việc dành cho Mác.
Mác ham muốn hành động và hành động tích cực.
Mác viết “trước hết thẩy muốn thử sức mình trong triết học”[7].
Thật vậy, giữ lời hứa với bố, Mác đã nghiên cứu luật học, và chỉ
trong học kỳ đầu đã đọc hết một núi sách chuyên môn, vượt quá chương trình đã định
rất nhiều. Song, Mác không hài lòng với việc tiếp thu những sự việc và luận cứ
riêng biệt. Mác thú thực với bố rằng không có triết học, Mác không thể tiến lên
được. Nhưng triết học đó phải như thế nào.
Do nền giáo dục và học vấn đã hấp thu, Mác là một người duy tâm về
quan điểm triết học, chịu ảnh hưởng trước hết của Căng và Phi-xte, và cả quan
điểm của các nhà khai sáng Pháp Von-te và Rút-xô. Lúc đầu, Mác đã dùng quan điểm
của mình lúc bấy giờ để xem xét tất cả các điều của luật học và mất khá nhiều
công sức để xây dựng một hệ thống triết học pháp quyền; song chẳng bao lâu Mác
lại bác bỏ nhữn lý luận của chính mình, vì lý luận đó không đứng vững sau khi
được kiểm tra phê phán. Điều đó xẩ ra không phải chỉ có một lần. Đồng thời, Mác
lại xem xét lại tất cả những vấn đề triết học quan trọng nhất một cách có phê
phán. Và cư thế mà làm đi làm lại từ đầu. Mác cứ kiểm tra đi kiểm tra lại dòng
tư tưởng của mình và kết quả thu được, tư phê phán một cách không thương xót.
Và càng ngày Mác càng nhận thức rõ hơn khuôn khổ chật hẹp và tính chất không
khoa học của chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng thế giới tồn tại không khách
quan mà chỉ là sản phẩm của bản thân ý thức. Chẳng bao lâu Mác bắt đầu hiểu,
như đã viết cho bố là “sự việc hoàn toàn khác trong biểu hiện cụ thẻ của thế giới
tư tưởng sinh động, như luật pháp, Nhà nước, giới tự nhiên, toàn bộ triết học: ở
đây, cần phải xem xét kỹ bản thân khách thể trong sự phát triển của nó và không
thể có sự phân chia một cách tùy tiện nào, ở đây lý tính của chính sự vật phải
được giải thích như một cái gì mâu thuẫn trong bản thân nó, đồng thời trong bản
thân sự vật lại có sự thống nhất của nó”[8].
Những ý niệm này là của Hê-ghen. “Từ chủ nghĩa duy tâm, cần nói thêm là co sánh
với chủ nghĩa duy tâm của Căng và Phi-xte, trong khi tiếp thu nó từ cái nguồn này
- con đã chuyển sang tìm tư tưởng ở ngay chính trong thực tiễn. Nếu trước kia
các thánh thần sống ở trên trời, thì nay các thánh thần trở thành trung tâm của
Trái Đất”[9].
Mác tự thú nhận như vậy trong bức thư gửi cho bố độc nhất còn giữ lại được những
năm đó – đề ngày mồng 10 tháng Mười một 1837.
Nếu lúc đầu Mác không đồng ý với Hê-ghen, thì bây giờ Mác trở thành
môn đồ của Hê-ghen. Anh sinh viên 19 tuổi đã biết nhìn thấy điều chủ yếu trong
triết học của ông thầy mình là phương pháp biện chứng. “… Các mối liên hệ càng
ngày càng chắc hơn, buộc chính con với triết học thế giới hiện đại”[10],
Mác viết cho bố như vậy và xác định bước chuyển sang lập trường của Hê-ghen là
một bước ngoặt trong cuộc đời mình. Đây thực là một nhận định đáng phục, vì
trên thực tế, bước chuyển này đã trở thành điểm xuất phát của việc xây dựng chủ
nghĩa cộng sản khoa học.
Mác kích thích cả các giảng viên trường Đại học tổng hợp nghiên cứu
triết học Hê-ghen. Nhưng cái chính đã lôi cuốn Mác đến với Hê-ghen là cuộc
tranh luận say sưa về các vấn đề lý luận và chính trị đương thời. Ước vọng của
Mác muốn phối hợp những quan điểm triết học của bản thân với thực tiễn, với lịch
sử và với hiện trạng của nhân loại, phù hợp với quan niệm của Hê-ghen.
Trước Hê-ghen, trong lịch sử tư tưởng của nhân loại chưa hề có một
người nào định chứng minh mối liện hệ nội tại và sự phát triển theo quy luật lịch
sử, với mức độ rộng lớn và sâu sắc như vậy. Thật ra, Hê-ghen – vốn là một người
duy tâm – nhìn thấy cơ sở của mọi việc xảy ra ở trong sự phát triển của các tư
tưởng, hoặc như ông nói, của “tư tưởng tuyệt đối”. Còn thế giới vật chất thì
ông chỉ xem như một loại phản ánh của tư tưởng này. Nhưng Hê-ghen là một người
duy tâm khách quan, ông xuất phát từ nguồn gốc tinh thần “khách quan” của thế
giới, nguồn gốc này không phụ thuộc vào ý thức của con người. Theo ý kiến ông,
tinh thần ở trong một quá trình phát triển liên tục và thúc đẩy lịch sự tiến
lên từ thấp đến cao, từ giai đoạn này đến gian đoạn khác, tuần tự và nhảy vọt.
Những giai đoạn quá độ đã vượt qua về mặt lịch sử của sự phát triển tinh thần
và việc thực hiện quá trình phát triển đó trong lịch sử loài người sẽ mất quyền
tồn tại và rời khỏi sân khấu, nhường chỗ cho một thực tiễn mới có khả năng sống,
đến thay thế theo quy luật, một thực tiễn được tư tưởng phê chuẩn là hợp lý, do
đó, là cần thiết. Quá trình biến đổi và phát triển thường xuyên này gọi là biện
chứng, cuối cùng đã thu được – theo Hê-ghen – biểu hiện cao nhất của mình và kết
thúc ở giai đoạn mà tư tưởng đạt đến mức tự nhận thức, do đó cũng kết thúc ở
trong khuôn khổ của chế độ trong đó tư tưởng tự nhận thức mình. Nghĩa là vấn đề
đang được nói tới ở đây là triết học Hê-ghen và thời đại của ông.
Một ý đồ triết học đồ sộ như vậy, định thăm dò và chi ra phương hướng
phát triển cơ bản trong mọi lĩnh vực của lịch sử loài người, nhất là trong lĩnh
vực tư duy, bằng phương pháp biện chứng, đã có ảnh hưởng lớn lao, và dĩ nhiên
là một thành tựu lịch sử vĩ đại. Nhưng triết học của Hê-ghen cũng đầy rẫy mâu
thuẫn. Trước hết, nó được xác định bởi mâu thuẫn giữa một bên là phương pháp biện
chứng mà Hê-ghen áp dụng một cách có ý thức, một phương pháp biện chứng không
thừa nhận bất cứ một tình trạng đình trệ nào, không thừa nhận bất cứ một chân
lý nào gọi là tuyệt đối, với một bên là sự hoàn thành có tính chất ngẫu nhiên của
quá trình phát triển tinh thần, trái ngược với phép biện, mà Hê-ghen cũng đã
djwa vào luận điểm sau này mà bào chữa cho sự tồn tại của Nhà nước Phổ lúc bấy
giờ. Như thế nghĩa là về tính chất triết học, Hê-ghen không những duy tâm mà
còn bảo thủ - mặc dù phương pháp biện chứng của ông là cách mạng.
Chính vì học thuyết của Hê-ghen có tính chất mâu thuẫn như vậy, cho
nên nó đã cho phép những người có quan điểm triết học và chính trị rất khác
nhau có thể dựa vào nó mà dẫn chứng. Người nào coi cái điều Hê-ghen ca tụng Nhà
nước Phổ như “sự thể hiện của tư tưởng tuyệt đối” là chủ yếu, có thể là một người
bảo thủ, nhưng xét về mục đích chính trị thì đó là một tên phản động. Người nào
nhìn thấy cái cơ bản ở trong phương pháp biện chứng của Hê-ghen thì người đó có
thể, thậm chí phải là ở phía đối lập với hệ tư tưởng phong kiến, đối lập với
tôn giáo và chế độ chính trị.
Sự việc đã xẩy ra đúng như vậy. Mâu thuẫn giữ người tự xưng là học
trò của Hê-ghen đã bộc lộ công khai vào cuối những năm 30. Bắt đầu một cuộc
tranh luận gay gắt giữa phái gọi là những người Hê-ghen già, gồm cánh giáo điều
– phản động, với những người Hê-ghen trẻ, là những nhà tư tưởng cách mạng trong
số học trò của Hê-ghen, những người kế thừa phép biện chứng của ông.
Vào thời gian đó, Mác bắt đầu hấp thu học thuyết Hê-ghen. Tất nhiên
lúc đầu, trong thâm tâm, anh sinh viên trẻ đứng về phía những người Hê-ghen trẻ,
nhưng chẳng bao lâu sau anh đã tán thành họ một cách công khai. Bởi vì chính
phương pháp biện chứng của Hê-ghen đã đưa Mác ra khỏi chỗ bế tắc của chủ nghĩa
duy tâm chủ quan.
Con đường đó không dễ dàng đối với Mác. Những buổi học tập căng thẳng
– Mác thường ngồi cho đến sáng bên anh nến leo lắt – đã làm tổn hại sức khỏe của
Mác. Vì thế, bác sĩ khuyên Mác đến mua hè nên ra ngoại thành ở, nếu có thề. Mùa
xuân năm 1837 Mác chuyển ra ngoại ô Béc-lin, ở Stơ-ra-lau, và suốt mùa hè tại
đây, có lẽ ở nhà số 4 (bây giờ là nhà số 8, An-tơ Stơ-ra-lau), chứ không phải tại
căn phòng sinh viên của mình ở số nhà 50, phố An-tơ-i-a-cốp. sau khi rời
Mít-ten, Mác đã chuyển đến ở đây.
Mùa hè năm 1837, những chuyến đi thường xuyên về Béc-lin và nhữn cuộc
dạo chơi bên bờ sông Sơ-pư-rê đã làm cho Mác khỏe hơn. Mác viết cho bố: “Cong
không ngờ là con ốm yếu, quặt quẹo thế, mà ở đây cơ thể con lại trở nên khỏe mạnh
và rắn chắc”[11].
Nhưng ngay cả ở Stơ-ra-lau, Mác vẫn tiếp tục học tập ráo riết. Đồng thời Mác
tìm ra phương pháp làm việc mà sau này Mác vẫn tiếp tục suốt đời. Tất cả những
sách đã đọc, Mác đều trích ghi những đoạn lớn, kèm theo nhà những ý nghĩ và những
nhận xét có phê phán của chính mình để cho rõ ấn đề. Như vậy, không những Mác
tiếp thu khoa học hiện đại một cách vững chắc, sâu sắc, mà trước hết là có phê
phán.
Sách báo mà Mác nghiên cứu cẩn thận, rất rộng và đa dạng. Nó gồm có
lịch sử luật La-mã, luật hình, những sách nguyên bản tiếng la-tinh và luật nhà
thờ, lịch sử triết học, triết học pháp quyền, và tất cả các sách văn học nữa.
Mác quán triệt triết học Hê-ghen, nhất là phép biện chứng, ngay ở
trong nhóm những người cùng tư tưởng, nhiều người trong bọn họ chẳng bao lâu
sau đã đóng vai trò quan trọng trong phong trào của phái Hê-ghen trẻ. Mác viết
cho bố vào tháng Mười một 1837: “Nhờ những cuộc gặp gỡ thường xuyên với các bạn
Stơ-ra-lau, con đã có dịp đến “Câu lạ bộ tiến sĩ”. Trong số hội viên của câu lạc
bộ có mấy phó giáo sư và một người thân nhất trong các bạn của con ở Béc-lin là
tiến sĩ Ru-ten-béc. Tại những cuộc tranh luận ở đây đã bộc lộ những quan điểm
khác nhau, đối lập nhâu…” [12].
“Câu lạc bộ tiến sĩ” không phải là một nhóm hẹp các nhà trí thức
trung thực với nhà thờ và chính phủ. Đó là nơi trung tâm gặp gỡ của một số bạn
bè hay gây sự và sắc sảo, những kẻ đã ghi trên lá cờ của mình khẩu hiệu: phê
phán tôn giáo, thật là tội khủng khiếp đáng chết! Những quyển sách và những bài
văn công kích có ý nghĩa của những năm đó đã ra đời, được thảo luận, được phê
bình ở đây. Những con người này đã cung cấp vũ khí tinh thần cho các báo chí tiến
bộ. Ở đây, mõi người khai thác nguồn cảm hứng cho các công trình của mình: phó
giáo sư lý học tiến sĩ Bơ-ru-nô Bau-e khai thác cho các bài giảng, giáo viên
trường phổ thông thực hành Các Phơ-ri-đơ-rích Cốp-pen cho các công trình nghiên
cứu lịch sử, giáo sư tiến sĩ A-đôn-phơ Ru-ten-béc cho các bài chính luận, mỗi
người sử dụng những gì đã khai thác được ở câu lạc bộ cho cuộc đấu tranh hàng
ngày và cho công tác khoa học. Ở đây, họ phát triển các quan điểm chính trị –
tư tưởng và triết học của mình trong các buộc thảo luận sôi nổi.
Bấy giờ anh sinh viên Các Mác cũng gia nhập câu lạc bộ này của những
người Hê-ghen trẻ Béc-lin. Chẳng bao lâu sau, Mác đã trở tành một trong những
người có tác động tinh thần mạnh mẽ hơn cả ở câu lạc bộ, mặc đầu tuổi còn trẻ
– phần lớn bạn bè của Mác ở câu lạc bộ đều
hơn Mác đến 10 tuổi và đã quá lứa tuổi sinh viên từ lâu. Mác thân với Bơ-ru-nô
Bau-e và A-đôn-phơ Ru-ten-béc. Bơ-ru-nô Bau-e lúc đầu có ảnh hưởng đáng kể đến
anh sinh viên trẻ (Mác kém Bơ-ru-nô Bau e 9 tuổi) nhưng chẳng bao lâu ông đã thấy
ở Mác một người cùng hội ngang hàng, có thể thảo luận cả những vấn đề hiện đại,
cả những việc riêng tư. Phơ-ri-đơ-rich Cốp-pen cũng có cảm tình sâu sắc vứi người
đồng chí trẻ tuổi, có bộ óc thông minh, sáng suốt.
Các hội viên của “Câu lạc bộ tiến sĩ” thường họp nhau hoặc ở quán cà
phê Sơ-tê-khen trên phố Gian-đa-men-mác (bây giờ là khu vực Viện Hàn lâm), hoặc
ở nhà. Mác là hội viên của “Câu lạc bộ tiến sĩ” cho đến tận năm 1841, khi tốt
nghiệp trường đại học tổng hợp. Ở đây, phép biện chứng của Hê-ghen đã giúp Mác
hiểu lịch sử là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, diễn ra trong những
chuyển biến thường xuyên.
Song, dầu cho anh sinh viên trẻ có tiếp thu được ít nhiều gì chăng
nữa ở các đồng chí lớn tuổi hơn, chẳng bao lâu tư tưởng của anh đã đi theo những
con đường khác. Trong khi các bạn áp dụng phép biện chứng của Hê-ghen chủ yếu
trong lĩnh vực lý luận, không liên hệ cụ thể với thực tế, và trước hết trong vấn
đề phê phán tôn giáo, thì Mác càng có hoài bão ứng dụng triết học trong thực tiễn.
Nhưng hoàn toàn không phải là Mác đánh giá không đúng mức ý nghĩa của việc phê
phán tôn giáo. Mấy năm sau, chính Mác đã viết về vấn đề này như sau, khi đánh
giá vai trò lịch sử của “Câu lạc bộ tiến sĩ”: “…phê phán tôn giáo là tiền đề của
mọi sự phê phán khác”[13].
“Do đó, sự phê phán tôn giáo trong mầm mống của nó là sự phê phán cái bể khổ mà
vầng hào quang thiêng liên của bể khổ đó là tôn giáo”[14].
Mác đã gây một ấn tượng mạnh mẽ biết chừng nào ở trong nhóm này. Bản
trường ca châm biếm hợm hĩnh do anh thanh niên Phơ-ri-đơ-rich Ăng-ghen và Ét-ga
Bau-e, em trai của Bơ-ru-nô Bau-e, viết sau khi Mác rời khỏi Béc-lin, đã chứng
tỏ điều đó. Ăng-ghen, trong những năm từ 1841-1842, phục vụ trong đội pháo binh
cận vệ ở Béc-lin, nhưng chưa biết Mác trực tiếp. Trong bản trường ca có những
dòng sau đây nói về người đồng chí có nhiệt huyết và gan dạ:
“Ai đã phóng kịp theo anh
Tựa như bão lốc tung hoành thảo nguyên.
Kìa, đứa con đen đủi thành Tơ-ria
Với bầu nhiệt huyết tràn trề hăng say
Không đi, - anh chạy, không – bay
Như băng tuyết lở cuốn ngay núi này
Rực luồng mắt phượng gan thay,
Bồi hồi dang rộng đôi tay vươn mình.
Tựa hồ muốn phá trời xanh,
Tựa hồ quỷ ám, không đành ngồi yên.
Hay tay nắm chặt như điên
Đó chàng lực sĩ muốn lên phá trời!”[15]
Tình bạn với Bơ-ru-nô Bau-e và Ru-ten-béc giúp Mác biết rõ hơn, gần
gũi hơn với đời sống văn hóa của Béc-lin. Mác đi nhà hát luôn; Mác giữ một ấn
tượng đựac biệt khi xem nghệ sĩ Dai-đen-man đóng vai Mê-phi-xtô-phen trong vở
“Phau-xtơ” của Gớt. Mác thường lui tới nhà nữ văn sĩ Bét-ti-na phôn Ác-nim, một
người có tinh thần dân chủ. Nhà của bà ở phố Un-te đen Lin-đen, lúc bấy giờ là
trung tâm đời sống tinh thần của Béc-lin.
Vào thời kỳ này – bấy giờ Mác ở phòng số 17, phố Mô-ren – quyết định
của Mác không muống học làm luật sư mà làm giáo viên, nếu có thể thì làm giáo
sư triết học, đã chín muồi. Cha Mác, vì thương con, cuối cùng cũng dằn lòng nhượng
bộ, mặc dầu vẫn lo là con trai ông ít chú ý đến việc bảo đảm tương lai. Nỗi lo
lắng này càng nặng nề đến nỗi ông cảm thấy không còn sức lực nữa.
Ngày 10 tháng Năm 1838, cụ Hen-rích Mác từ trần sau một thời gian
dài lâm bệnh, thọ 61 tuổi. Các Mác bao giờ cũng nhớ đến cha với tấm lòng biết
ơn chân thành, người cha mà Mác có thể tin tương để bộc lộ mọi vấn đề và mọi ưu
tư của mình.
Mác giữ tấm hình của cha ở bên mình cho tới khi chết.
Cha mất, khiến tình hình kinh tế của Mác trở nên gay go. Bây giờ một
mình mẹ phải lo cho bẩy đứa con – đứa con trai út, Ê-đu-a, chết năm 1837 vì bệnh
lao phổi. Mẹ không thể hiểu được rằng tại sao con tra cả của mẹ lại hiến mình
cho cái thứ triết học “không có lợi nhuận” gì cả. Vì thế, Mác cần phải nhanh
chóng hoàn thành học tập. Song, cái tính tự phê bình nghiêm khắc đã trở thành đặc
điểm của toàn bộ hoạt động khoa học sau này của Mác, đã không cho phép Mác kết
thúc những công trình nghiên cứu của mình một cách vội vã.
Vào đầu năm 1839, Mác được miễn quân dịch vì yếu phổi và hình như
còn vì bệnh mắt nào đó. Mác bắt đầu viết luận án. Lúc bấy giờ Mác ở theo địa chỉ
45-A phố Lu-i-den (bây giờ là số nhà 60, phố Lu-i-den). Trong tất cả 7 địa điểm
mà Mác đã từng ở trong thời gian học tập ở Béc-lin, đây là ngôi nhà độc nhất
còn giữ lại được. Bây giờ ở ngôi nhà này có treo một bảng kỷ niệm.
Mác chọn đề tài cho luận án của mình là “Sự khác biệt giữa triết học
tự nhiên của Đê-mô-cơ-rít và triết học tự nhiên của Ê-pi-quya”. Ông nghiên cứu
rất sâu quan điểm cả các nhà triết học Hy lạp Đê-mô-cơ-rít và Ê-pi-quya, những
nhà triết học đã đứng trên lập trường duy vật. Trước hết Mác bảo vệ chủ nghĩa
vô thần của Ê-pi-quya, nhà khai sát sáng vĩ đại nhất của cổ đại và là địch thủ
công khai của tín ngưỡng thánh thần. Các quan niệm vô thần của Mác là một lời
thách thức gián tiếp đối với chế độ phong kiến và Nhà nước Phổ theo Thiên chúa
giáo.
Đồng thời trong luận án này, Mác bắt đầu đánh giá có phê phán triết
học hiện đại của Hê-ghen – một dự định mà Mác tiếp tục thực hiện mấy năm sau
trong bài báo “Phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”. Mặc dầu trong luận
án Mác còn đứng trên lập trường của những người theo phái Hê-ghen, nghĩa là lập
trường duy tâm, song Mác hoàn toàn không phải là một người gắn bó với Hê-ghen một
cách mù quáng. Tuy Mác đánh giá cao phương pháp biện chứng duy tâm của Hê-ghen
nhưng đối với Mác, triết học của Hê-ghen hoàn toàn không phải là điểm kết thúc
của sự phát triển triết học, mà là điểm xuất phát, là cơ sở của sự phát triển
tiếp theo của triết học. Trong tư tưởng của hê-ghen, cái hấp dẫn Mác là cái góp
phần cho khoa học phát triển. Còn cái gì không đáp ứng được yêu cầu này thì Mác
bác bỏ.
Trong lời nói đầu của bản luận án, Mác tự hào tuyên bố là mình khâm
phục Pơ-rô-mê-tê; đối với Mác, Pơ-rô-mê-tê đã trở thành hình ảnh tượng trung của
con người bị hành hạ, đau khổ, vì đấu tranh cho tự do – kẻ thù của thánh thần
và bạn của loài người. Mác muốn đến với nhân dân với tinh thần của Pơ-rô-mê-tê
cùng nhân dân tấn công những thành trì của phản động, áp bức và của tất cả những
gì mâu thuẫn với lý trí. Còn những kẻ bảo vệ cho cái cũ, cái lỗi thời, những kẻ
phản động, thì Mác so sánh với Héc-méc, sứ giả của các thánh thần, tên tay sai
của chúa tể Ô-lim-pơ – nơi ở của các thánh thần Hy Lạp. Trong khi phần đông những
người Hê-ghen trẻ đứng trên lập trường tự do, nghĩa là chia sẻ những mục đích
chính trị của giai cấp tư sản, những kẻ có của, thì Mác, nhờ các buổi học tập
triết học và kinh nghiệm chính trị đầu tiên, đã đứng trên lập trường dân chủ,
Mác muốn đấu tranh không phải vì lợi ích của giai cấp tư sản, mà vì lợi ích của
toàn dân.
Mùa xuân năm 141 Mác kết thúc bản luận án. Mác coi việc bảo vệ luận
án ở trường đại học Béc-lin, nơi có các nhà tư tưởng chuyên nghiệp của thế lực
phản động, đóng đo, là hạ phẩm giá của mình. Vì thế, Mác gửi luận án về trường
đại học I-en-scơ. Giáo sư nhận xét luận án đã đánh giá nó cao, vì nó chứng tỏ
là tác giả “có bộ óc thông minh, có tư tưởng sắc sảo và đọc nhiều”[16].
Và ngày 15 tháng Tư 1841, Mác được phong học vị tiến sĩ triết học mà không cần
thi tiếp tục.
Vào giữa tháng tư, khi Mác rời Béc-lin trở về Tơ-ria, các đồng chí ở
“Câu lạc bộ tiến sĩ” đã đưa tiến Mác với những lời chúc tụng tốt đẹp nhất. Họ
chờ đợi ở Mác những sự nghiệp vĩ đại và ủng hộ ý định của Mác nhận chức giáo sư
ở trường Đại học tổng hợp Bon. Nhà chính luận Mô-dét Hét-xơ, một trong những
người Hê-ghen trẻ, đã viết cho bạn mình vào mùa hạ năm 1841 với một niềm khâm
phục; “Anh hãy chuẩn bị làm quen với một triết gia vĩ đại nhất, có thể là một
triết gia chân chính duy nhất trong số đang còn sống hiện nay, một người mà chẳng
bao lâu nữa sẽ thu hút mọi luồng mắt của nước Đức về phía mình, khi nào ông bắt
đầu phát biểu công khai (trên báo chí hoặc trên bục giảng) …
Tiến sĩ Mác, đó là tên của người mà tôi ngưỡng mộ, hãy còn trẻ lắm
(chừng 24 tuổi là cùng), ông ta sẽ giáng một đòn quyết định vào tôn giáo và
chính trị trung cổ. Sự nghiêm chỉnh sâu sắc nhất về triết học của ông kết hợp với
trí thông minh sắc sảo tế nhị nhất; anh hãy hình dung cả Rút-xô, Von-te, Hôn-bắc,
Lét-xinh, Hai-nơ và Hê-ghen kết hợp lại trong một con người – tôi nói kết hợp
chứ không phải hỗn hợp một cách máy móc – và anh sẽ có khái niệm về tiến sĩ Mác.”[17]
Lịch sử đã khẳng định những dòng của tác giả là hoàn toàn đúng,
nhưng tác giả chỉ lầm có một điều là Mác không nhận được chức giáo sư ở Bon.
[1]
C. Mác và F. Ăng-ghen: Toàn tập, tiếng
Nga, t.1, tr. 185.
[2]
Thư của Lút-vích Phơ-bách gửi A Phơ-bách ngày 6-7-1824. Trích trong sách; Ph.
Mê-rinh-gơ “Các Mác”. Mát-xcơ-va, 1957, tr37.
[3]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1956, tr. 8
[4]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 16
[5]
Trích dẫn sách Người đi đường không biết
mỏi, của I-li-na, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1964, tr. 174.
[6]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 6.
[7]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 6.
[8]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 8.
[9]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 8.
[10]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 14.
[11]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 12.
[12]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 14.
[13]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, tiếng
Nga, t. 1, tr. 414.
[14]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, tiếng
Nga, t. 1, tr. 414.
[15]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Những tác phẩm đầu
tay, tiếng Nga, Mát-xcơ-va, 1962, tr. 483.
[16]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, tiếng
Nga, t. 1, tr. 254.
[17]
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, tiếng
Nga, t. 1, tr. 261.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét