Tôi
viết bài này có thể sẽ động chạm đến rất nhiều người, thậm chí có những người sẵn
sàng quay lưng lại để chửi bới tôi nhưng tôi cảm thấy không thể không nói được.
Tôi đã từng nghĩ có thể sẽ im lặng, nhưng cuối cùng tôi nhận ra sự im lặng sẽ
chỉ khiến cho mình thêm hèn nhát vì vậy tôi nghĩ rằng tôi phải viết và phải nói
ra nó. Mấy ngày gần đây, khi mà cả nước đang xôn xao lên về vụ giàn khoan HD981
của Trung Quốc tại vùng biển Việt Nam cũng như một số các cuộc biểu tình đã diễn
ra để phản đối hành động của Trung Quốc. Một số người đã hỏi tôi về vấn đề này
nhưng tôi không đưa ra bất kỳ một ý kiến nào cả, đơn giản vì như lần trước đã
phân tích, theo ý kiến cá nhân của tôi, Việt Nam cũng giống như 1 người cần chữa
bệnh từ bên trong hơn là bên ngoài, cần phải xem xét các vấn đề nội tại trong
xã hội Việt Nam là chính. Những vấn đề này tôi đã đề cập đến trong bài viết kỷ
niệm 196 năm ngày sinh của Karl Marx. Chính vì vậy tôi tránh việc làm căng thẳng
các vấn đề bên ngoài hay như biển Đông, tuy nhiên ngay lúc thời điểm bấy giờ,
báo chí liên tục đưa các thông tin về biển Đông cũng như các bình luận của
chuyên gia, của các NGOs về Biển Đông cũng như cổ vũ cho biểu tình chống Trung
Quốc. Ở một số tờ báo còn đăng các bài viết như thể hiện lòng yêu nước cũng như
lớn tiếng dạy dỗ người khác về lòng yêu nước. Lại thêm một số lượng lớn các fan
page trên các mạng xã hội hoặc đội ngũ Dư luận viên đông đảo hô hào, chia sẻ
thông tin và kêu gọi biểu tình, kêu gọi tảy chay hàng hóa Trung Quốc. Những thức
này như kích thích thêm tính tự tôn dân tộc của người Việt Nam lên rất cao. Mỗi
người, mỗi ngành nghề lại có những cách chia sẻ thể hiện khác nhau. Thậm chí có
một số lều báo còn bám vào những luận điểm như Việt Nam được Mỹ ủng hộ, được quốc
tế ủng hộ cần phải kiên quyết. Và chỉ đến khi xảy ra những vụ bạo loạn ở Bình
Dương, ở Hà Tĩnh thì lúc này lại thấy các báo chí và các vị trí thức trên mạng
quay sang chửi rủa công nhân chúng ta, họ kêu gào là phải bắt các công nhân
này, phải bắt những kẻ nổi loạn lại vì họ làm ảnh hưởng đến các nhà đầu tư, làm
các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không đầu tư vào Việt Nam và làm xấu mặt hình ảnh
của Việt Nam. Rồi ngày hôm nay khi mà đã có thông tin đến hàng trăm người bị bắt
ở Bình Dương thì các lều báo, các Dư luận viên lại chia sẻ những hình ảnh đó, họ
kêu gọi cần có những hình thức trừng phạt đích đáng cho những người bị bắt và họ
quy luôn những người đó là những kẻ kích động là những tổ chức phản động giấu mặt
đang phá hoại. Một hiện tượng đang diễn ra và khá phổ biến trên các báo mạng và
mạng xã hội tại Việt Nam.
Khi
xem đến đây tôi bỗng dưng lại nhớ đến một trích đoạn khá nổi tiếng của Karl
Marx trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản như sau: “Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Cuộc đấu
tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời. Thoạt đầu,
cuộc đấu tranh được tiến hành bởi những công nhân riêng lẻ; kế đến, bởi những
công nhân cùng một công xưởng; và sau đó, bởi những công nhân cùng một ngành
công nghiệp, cùng một địa phương, chống lại người tư sản trực tiếp bóc lột họ.
Họ không phải chỉ đả kích vào quan hệ sản xuất tư sản mà còn đánh ngay vào cả
công cụ sản xuất nữa; họ phá huỷ hàng ngoại hoá cạnh tranh với họ, đập phá máy
móc, đốt các công xưởng và ra sức giành lại địa vị đã mất của người thợ thủ
công thời trung cổ….Còn tầng lớp vô sản
lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối rữa của những tầng lớp bên dưới
nhất trong xã hội cũ, thì đây đó, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào
phong trào, nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho
những mưu đồ của phe phản động”. Có những kẻ trí thức lớn tiếng kêu rằng những
người công nhân đó là lưu manh, là cặn bã xã hội cần phải trừng trị đích đáng.
Nhưng nếu nhìn lại cái phân tích ở trên của Karl Marx thì sao, họ đúng là sự thối
rữa của xã hội cũ, họ là vì chính sách cuộc sống cơ cực của mình mà sẽ bị lôi
cuốn vào phong trào vô sản, nhưng lại dễ bị bán mình cho phe phản động vì họ
thiếu hiểu biết, vì họ quá thiếu thốn, quá khổ sở rồi. Những ai đọc đến đoạn
này của Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản mà không nhìn ra được cái bản chất bên trong,
cái phân tích sâu sắc của Karl Marx thì không thể thấy được tính nhân đạo của
ông, sự phân tích xã hội đúng đến đáng kinh ngạc của ông. Hơn nữa các hình thức
đấu tranh của giai cấp vô sản là thế nào, đó là phá hủy hàng hóa cạnh tranh, là
đập phá máy móc, là đốt các công xưởng của chính họ vì theo họ đó là nguồn gốc
của bóc lột, không ai chỉ cho họ giác ngộ xem họ cần làm gì, và họ nên làm gì
và làm thế nào thì họ sẽ đấu tranh một cách tự phát và hệ quả là như chúng ta
đã thấy. Nhưng liệu có ai chịu đứng ra để xem vì sao họ lại thế, họ hành động
như thế là nguyên nhân từ đâu. Có lẽ không ai khác là K.Marx và F. Egnels, những
người thầy đáng kính của giai cấp vô sản có thể giải thích được điều này
Thứ
nhất: cuộc biểu tình biến thành bạo động của công nhân trước hết nó xuất phát từ
những mâu thuẫn đã âm ỉ, đã chất chứa, giữa công nhân và những người chủ tại
các doanh nghiệp mà đã chất chứa từ rất lâu rồi. Nó giống như ngọn lựa hồng
trong đống tro vậy, âm ỉ cháy và chỉ đợi có cơ hội thì bùng phát lên, vì sao lại
như vậy, trước hết nó xuất phát từ chính hoàn cảnh cơ cực của công nhân. Chúng
ta hãy đến với một số những phân tích của chính Engels trong cuốn Tình cảnh
giai cấp công nhân Anh: “Ở đây, giai cấp
công nhân chiếm chừng 78% tổng số cư dân (gần 300.000 người), họ ở những khu phố
còn nghèo nàn và ghê tởm hơn cả những hang ổ tồi tệ nhất ở St. Giles và ở
Whitechapel, những vùng ngoại ô ở Dublin và những wynds ở Edinburgh. Những khu
như thế có rất nhiều ở trung tâm thành phố - ở phía nam Trongate, phía tây
Saltmarket, trong khu Calton, sau phố High, v.v.; đó là những ngõ hẹp và những
đường ngoắt ngoéo, chằng chịt với nhau, lắt léo không cùng, ở đó cứ vài bước lại
gặp những sân hoặc những ngõ cụt, gồm những ngôi nhà cũ kỹ, sắp đổ, những tầng
thấp, bí hơi và không có ống nước. Những nhà ấy đúng là chật ních người. Mỗi tầng
có ba hoặc bốn gia đình, có khi đến hai chục người, có khi mỗi tầng lại cho
thuê làm nhà ngủ trọ, và trong mỗi phòng nhét đến mười lăm, hai mươi người,
không thể nói là ở, mà là chồng chất lên nhau. Các khu phố ấy là chỗ nương thân
của những kẻ nghèo khổ nhất, trụy lạc nhất, đạo đức đồi bại nhất trong cư dân,
và nên xem là chỗ bắt nguồn của những bệnh dịch sốt truyền nhiễm ghê gớm lan
tràn ra khắp cả Glasgow…
…Đây cái giới hạn, mức lương tối
thiểu, cũng là tương đối: khi trong gia đình mọi người đều đi làm, thì mỗi người
có thể kiếm ít đi một chút, và giai cấp tư sản đã tận dụng tối đa cơ hội này:
nhờ lao động máy móc, có thể thuê cả phụ nữ và trẻ con vào làm, để hạ thấp tiền
lương. Tất nhiên có những gia đình, trong đó không phải ai cũng làm việc được;
một gia đình như vậy, sẽ rất khổ, nếu phải làm việc với mức lương tối thiểu,
tính cho một gia đình gồm toàn những người có thể làm việc; vì vậy tiền lương được
ấn định ở một mức trung bình, với mức này, nhà nào mà mọi người đều đi làm được
sẽ sống tương đối khá, còn nhà nào có những người không làm việc được thì sẽ tương
đối khổ. Nhưng gặp trường hợp tệ nhất, thì mỗi người lao động đều sẵn sàng từ bỏ
chút tiện nghi và văn hoá mà anh ta đã quen thuộc ấy, miễn sao sống được; thà ở
một cái chuồng gia súc còn hơn là màn trời chiếu đất; thà quần áo rách rưới còn
hơn là không có tí quần áo nào; thà ăn khoai tây còn hơn là chết đói. Với niềm
hy vọng ở ngày mai tốt đẹp hơn, họ đành chịu nhận một nửa tiền lương còn hơn là
chết đói ở ngoài phố, như bao nhiêu người đã bị tước mất mẩu bánh mì. Cái chút
ít ấy, cái "méo mó có hơn không" ấy, chính là tiền lương tối thiểu. Nếu
số người lao động nhiều quá mức giai cấp tư sản cần sử dụng, nếu do đó mà qua
cuộc cạnh tranh, vẫn còn một số người không tìm được việc làm, thì số ấy cứ việc
chết đói; bởi vì nhà tư sản chắc hẳn sẽ không cho họ việc làm, nếu như hắn
không kiếm được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm lao động đó….
Trong báo cáo về công xưởng, vẫn có
đủ chứng cớ nói lên rằng: cả trong những công xưởng và ở những công nhân làm việc
12-13 giờ mỗi ngày, theo qui định trong đạo luật của ngài J. C. Hobhouse, vẫn
luôn xuất hiện những chứng bệnh không nặng lắm: sưng mắt cá; yếu và đau ở chân,
hông và cột sống; giãn tĩnh mạch; lở loét ở chân tay; toàn thân suy nhược, đặc
biệt là vùng bụng; nôn ọe, chán ăn, có khi lại đói cồn cào, khó tiêu; chứng u uất;
các bệnh phổi, do bụi và không khí xấu của công xưởng gây ra, v.v. và v.v. Về mặt
này, nên chú ý đặc biệt tới những báo cáo ở Glasgow và Manchester. Những bệnh ấy
vẫn còn sau khi có đạo luật năm 1833, và đến nay chúng vẫn tiếp tục phá hoại sức
khỏe của giai cấp công nhân. Người ta chỉ quan tâm đến việc khoác một cái áo
văn minh giả nhân giả nghĩa, lên lòng tham lợi nhuận thô bỉ của giai cấp tư sản;
dùng luật pháp để không cho chủ xưởng gây ra những việc tệ hại quá lộ liễu,
giúp họ có thêm lí do để lừa bịp và tự mãn về cái chủ nghĩa nhân đạo giả dối của
họ, thế thôi. Nếu ngày nay lại cử một tiểu ban mới để điều tra về công xưởng,
thì họ sẽ thấy tình hình phần lớn vẫn như xưa. Còn việc phổ cập giáo dục, mà đạo
luật đề ra nhưng không có chuẩn bị trước, thì chưa có tác dụng, vì chính phủ
không đồng thời nghĩ cách xây dựng những trường tốt. Các chủ xưởng thuê vài
công nhân mất năng lực lao động làm giáo viên, trông coi lũ trẻ hai giờ mỗi
ngày, cho rằng thế là đúng theo pháp luật; nhưng bọn trẻ không học được gì.
Ngay cả những báo cáo của các thanh tra công xưởng, dù chỉ hạn chế ở mức thi
hành phận sự, tức là kiểm tra xem chủ xưởng có tuân theo đạo luật về công xưởng
hay không; cũng đưa ra đủ tài liệu để chứng tỏ rằng, những điều tệ hại nói trên
vẫn tiếp tục tồn tại, như một tất yếu. Các thanh tra Horner và Saunders, trong
những báo cáo tháng Mười và tháng Chạp 1843 của họ, nói rằng: trong các ngành
không dùng trẻ em hoặc có thể thay chúng bằng người lớn thất nghiệp, nhiều chủ
xưởng vẫn bắt công nhân làm mỗi ngày 14-16 giờ, và hơn nữa. Trong số công nhân
của các ngành ấy, có rất nhiều người chỉ vừa mới vượt quá tuổi được pháp luật bảo
hộ. Nhiều chủ xưởng khác cố ý phạm luật: họ rút ngắn giờ nghỉ, bắt trẻ em làm
việc quá thời gian pháp luật cho phép, sẵn sàng ra tòa chịu phạt, vì tiền phạt
chẳng đáng là bao so với món lợi mà họ thu được từ việc phạm luật đó. Nhất là
hiện tại, khi đang kinh doanh rất tốt, thì chủ xưởng càng bị cám dỗ mạnh.”.
Đọc
những đoạn trích trên, liệu bạn nghĩ rằng những gì Engels viết có lẽ là những
gì xa xôi chăng, là những thứ xưa cũ chăng, vậy tôi xin bảo bạn sai rồi, bạn có
bao giờ thử vào thăm 1 nhà máy sản xuất điện thoại Sam Sung xem, công nhân lao
động từ 12h cho đến 14h một ngày và thông thường họ chỉ được nghỉ 15 phút ca
sáng, 15 phút ca chiều và 1 tiếng vào buổi trưa để ăn. Với một thời gian lao động
và cường độ lao động như vậy nhưng công nhân Việt Nam chỉ lĩnh khoảng tiền
lương từ 3 đến 3,5 triệu VNĐ/tháng. Một con số mà họ phải ăn tiêu vô cùng tiết
kiệm mới có thể đủ sống và có chút tiền dành để cho gia đình. Công nhân Việt
Nam cũng phải sống trong những khu nhà thiếu thốn, những khu trọ cho thuê mà đời
sống sinh hoạt rất thấp, tôi có một anh bạn từng làm trong công ty xây dựng của Hàn Quốc nhưng thường
phải sống trọ với điều kiện thiếu thốn, trong khi đó lại thường xuyên làm việc
từ 7h sáng đến 9h tối kèm theo việc cúp lương, hoặc nợ lương là diễn ra thường
xuyên. Không chỉ Sam Sung mà bạn đến bất kỳ một khu công nghiệp nước ngoài nào
thì tình cảnh cũng gần giống như thế mà không khác nhau là mấy. Một cuộc điều
tra thống kê tại Việt Nam và được đưa lên kênh thông tin tài chính của VTV đã
cho thấy số doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội nhiều nhất ở Việt Nam lại là các
doanh nghiệp FDI, số doanh nghiệp trốn thuế nhiều nhất cũng là doanh nghiệp FDI
và doanh nghiệp có mức lương trung bình thấp nhất của Việt Nam cũng là FDI. Nhiều
người cho rằng làm trong doanh nghiệp nước ngoài thì lương cao, nhưng đó chỉ là
bộ phận văn phòng, còn nếu là làm công nhân thì sẽ không có mức đó, và để tính
mức lương trung bình trong từng khu vực thì họ sẽ tính tổng quỹ lương chia cho
tổng số người lao động. Qua đó ta có thể thấy rằng thực sự đời sống công nhân
Việt Nam đặc biệt làm trong các doanh nghiệp FDI hoàn toàn không hề dễ dàng tý
nào, nếu không muốn nói là khổ cực, chưa kể việc tăng ca, tăng giờ làm và nợ
lương là thường xuyên. Điều kiện vật chất như vậy nên đã là nguyên nhân chính dẫn
đến tồn tại những mâu thuẫn giữa công nhân và các chủ doanh nghiệp.
Thứ
hai: việc nổi loạn của công nhân tại các khu công nghiệp thuộc Bình Dương và Hà
Tĩnh cũng xuất phát từ việc báo chí, và mạng xã hội liên tục tuyên truyền chống
Trung Quốc. Đây là điều chắc chắn, bất kỳ báo mạng nào của Việt Nam mà không có
những bài viết về Trung Quốc và biển đảo, ở đây tôi không bàn đến các vấn đề
chính trị mà chỉ nói đến tuyên truyền. Bạn lật thử một trang báo mạng hay các
diễn đàn trên mạng xã hội thử xem, đâu đâu cũng có Trung Quốc và 90% các tin
này sẽ là: xã hội Trung Quốc vô cảm – hàng hóa Trung Quốc độc hại – thương lái
Trung Quốc lừa Việt Nam – Trung Quốc chiếm biển đảo Việt Nam. 90% các tin đưa về
Trung Quốc đều chỉ là những thông tin xấu, trong khi đó gần như Việt Nam không
nhìn thấy Trung Quốc 1 điểm tốt nào, có chăng cùng lắm là các phát biểu của
Trung Quốc trên trường quốc tế. Hệ thống tuyên truyền này nối từ năm này qua
năm khác, kéo dài liên tục hàng ngày hàng tháng nó đã làm gì, đã in sâu vào
trong tư tưởng người dân Việt Nam rằng Trung Quốc là xấu xa, là mọi rợ, là dân
tộc bất lương, đểu giả nhất trên thế giới. Hãy hỏi người Việt Nam xem, cứ nói đến
người Trung Quốc là họ sẽ nghĩ ngay đến đó là người bá quyền, là người đểu giả,
là lừa đảo, nó in hằn vào tâm trí người Việt Nam. Đã yêu thì yêu cả đường đi,
nhưng ghét thì ghét cả tông ti họ hàng vì thế tâm lý bài Trung Quốc đã trở
thành truyền thống của Việt Nam. Nhưng trong khi đó các báo mạng của Việt Nam
thì sao, tuyên truyền hộ rằng Mỹ là quốc gia tốt đẹp, là thiên đường của hạ giới,
là quốc gia của chính nghĩa trên thế giới, vì thế khi Mỹ ủng hộ Việt Nam thì tức
là Việt Nam cứ yên tâm mà chống Trung Quốc, có Mỹ đằng sau. Sự tuyên truyền này
cũng kéo dài quanh năm suốt tháng và nó đã kích động lên làn sóng biểu tình, bạo
động chống Trung Quốc. Giờ trong tâm lý của người Việt Nam đã được nhồi nhét một
tư tưởng đó là bài Trung Quốc và sùng bái Mỹ. Cũng đúng thôi những thông tin
như thế thường là rất nhiều người xem, mà nhiều người xem thì đồng nghĩa tăng lợi
nhuận cho báo mạng, vì vậy họ càng phải đưa tin, đưa thật nhiều và cũng không cần
kiểm chứng nguồn thông tin. Cái họ quan tâm là tiền, là lợi nhuận vì vậy họ phải
đưa tin như vậy. Trong khi đó ở Việt Nam cũng có đông đảo một đội ngũ các vị tự
nhận là dư luận viên trên mạng và họ tự tuyên truyền cái chủ nghĩa bài Trung Quốc
trên mạng, họ có thể là già có, trẻ có, trung niên đều có, họ nêu cao ngọn cờ ủng
hộ cái biểu tình chống Trung Quốc, dù họ phản đối các hành động của Việt Tân, của
phản động, của nhóm No-U nhưng họ cũng vẫn hành động như vậy. Họ cho rằng đấy là
cách khẩu hiểu thể hiện lòng yêu nước của họ, là họ cho đó là yêu nước. Xin
thưa là vâng cách vị có cách thể hiện lòng yêu nước của các vị thì người công
nhân, nông dân cũng có cách thể hiện lòng yêu nước của họ, đó là bãi công, là đập
phá máy móc.
Từ
hai nguyên nhân trên thì cái gì đến cuối cùng cũng phải đến, người công nhân ở
các khu công nghiệp đã vùng lên, họ biểu tình, họ đập phá nhà máy, họ cướp các
tài sản, đừng trách họ vì họ là vô sản, họ không được dạy học đến nơi đến chốn
và họ chỉ hành động theo cảm tính và họ nghĩ đó là hành động biểu hiện yêu nước.
Họ có phân được Trung Quốc và các nước Đông Á khác đâu, họ chỉ biết họ đang bị
bóc lột thậm tệ ở các doanh nghiệp đó, họ thấy rằng ông chủ ở đó là da vàng tóc
đen, là viết chữ toàn hình vuông thì hình tròn thì đều là Trung Quốc hết, họ
quy tất cả người Nhật Bản, người Đài Loan, người Hàn Quốc, người Singapore đều
là Trung Quốc hết, họ thấy rằng họ đã bị bóc lột, mà dân tộc đó lại còn đang
chiếm biển đảo của họ, vì vậy họ phải vùng lên đấu tranh, họ phải cướp lại những
gì thuộc về họ, về người Việt Nam. Không những thế cái chủ nghĩa dân tộc lên
cao đến mức người vô sản phân biệt dân tộc đến mức kỳ thị, họ đánh cả những người
vô sản khác đến từ Trung Quốc, những người công nhân cùng khổ như họ nhưng phải
tha phương cầu thực vì miếng cơm manh áo. Sự kỳ thị trỗi dậy đến khủng khiếp với
một tâm lý dân tộc cực đoan, họ tấn công chính những người cũng ở cùng hoàn cảnh
như họ. Và rồi kết quả sau cùng người công nhân được gì: những thành quả lao động
bao năm của họ bị mất, việc làm bị mất, tiền lương không được trả và đời sống bấp
bênh lại càng bấp bênh hơn, họ đứng trước nguy nghèo đói và thất nghiệp, những
lưỡi dao đang kề cổ họ. Họ bị lều báo, bị dư luận viên trì triết bảo rằng họ là
loại phá hoại đất nước, là loại cần phải đi tù là loại phá hoại ổn định xã hội
và làm xấu mặt hình tượng quốc gia. Vâng vậy tôi đặt câu hỏi là sao các lều
báo, các dư luận viên không hướng dẫn họ kỹ trước khi họ biểu tình đi, các vị
có học thức cơ mà, có trí tuệ cơ mà sao không giúp đỡ họ hiểu đi, chỉ đến khi họ
xảy ra truyện rồi thì các vị lại quay sang để nói xấu họ, để nhục mạ người công
nhân. Hiện tượng này làm tôi nhớ đến những gì K. Marx từng viết trong cuốn Cách
Mạng và phản Cách Mạn ở Đức là vô cùng đúng về cái gọi là tầng lớp trí thức tiểu
tư sản này: “Giai cấp tiểu tư sản, vĩ đại
về mặt khoe khoang, lại rất không có khả năng hành động và lẩn tránh một cách
nhút nhát khi cần phải làm một cái gì nguy hiểm. Tính chất nhỏ nhen của những
việc giao dịch buôn bán và những hoạt động tín dụng của nó đã ảnh hưởng sâu sắc
tới tính cách riêng của nó khiến cho tính cách này mang dấu ấn của sự thiếu nghị
lực và thiếu tinh thần tháo vát, vì vậy phải thấy trước rằng hoạt động chính trị
của nó sẽ mang những đặc điểm ấy. Nên trên thực tế, giai cấp tiểu tư sản đã
khuyến khích cuộc khởi nghĩa bằng những lời lẽ trống rỗng và những lời huênh
hoang về những điều nó quyết định làm; khi hoàn toàn trái với ý muốn của nó, cuộc
khởi nghĩa đã nổ ra, thì nó vội đoạt lấy chính quyền; nhưng nó chỉ sử dụng
chính quyền đó để thủ tiêu những kết quả của khởi nghĩa. ở bất cứ nơi nào mà một
cuộc xung đột vũ trang đã đưa tình hình đến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
thì bọn tiểu tư sản đều khiếp sợ tình hình nguy hiểm đối với chúng; khiếp sợ thấy
dân chúng coi trọng những lời kêu gọi chiến đấu huênh hoang của chúng, khiếp sợ
thấy chính quyền rơi vào chính tay mình; và khiếp sợ nhất trước những hậu quả của
chính sách mà chúng buộc phải thi hành, - những hậu quả sẽ đem lại không những
cho bản thân chúng, mà còn cho địa vị xã hội và cho tài sản của chúng. Há chẳng
phải là người ta đang chờ chúng thực sự hy sinh "tính mạng và tài sản",
như chúng thường quen nói, cho sự nghiệp khởi nghĩa đó sao? Há chẳng phải là
chúng đã bị bắt buộc phải giữ những chức vụ chính thức trong cuộc khởi nghĩa,
khiến cho chúng sẽ gặp phải mối nguy mất cơ nghiệp khi khởi nghĩa thất bại, đó
sao?”. Tôi xin nói thẳng nếu có chiến tranh xảy ra thì những kẻ trí thức tiểu
tư sản đó cũng sẽ lại là những kẻ nầm xấp hô xung phong, còn ai lên đường chiến
đấu, là quân đội, là bình lính là những người mà tầng lớp xuất thân của họ là từ
giai cấp vô sản, từ công nhân và nông dân mà ra. Còn khi xảy ra hậu quả thì
sao, vâng giai cấp tiểu tư sản lo sợ về những thiệt hại mà giai cấp vô sản gây
ra, họ lo lắng rằng nhà đầu tư nước ngoài không đến Việt Nam, họ lo sợ đời sống
sẽ bị sụt giảm, hình ảnh đất nước bị xấu đi vì người vô sản nên họ quay sang
quy kết tội cho người vô sản và tổ chức phản động. Nhưng nói thật tổ chức phản
động nó chỉ làm nột cái công việc là đổ thêm giọt nước tràn ly thôi, còn việc
làm đầy cái ly là do những lều báo, những dư luận viên đã làm trước đó. Người
công nhân và giai cấp vô sản chỉ là hệ quả của cái việc tuyên truyền đó thôi và
giờ đây họ đang phải chịu cái gọi là búa rìu dư luận.
Nhưng
cuối cùng nghĩ cho kỹ mà xem, cái áo tôi đang mặc do ai làm ra, là do công nhân
làm ra, bát cơm tôi ăn là do ai làm ra, là do nông dân làm ra. Dụng cụ tôi dùng
đều do công nhân – nông dân hay là do giai cấp vô sản làm ra trong đó có công sức
lao động, có máu và nước mắt của chính giai cấp vô sản kết tinh trong những
hàng hóa mà tôi dùng hàng ngày, tôi chưa làm gì đóng góp được cho họ, chưa giúp
họ cải thiện được đời sống, tôi phải thấy xấu hố vì chính bản thân mình. Nhưng
ngày hôm nay nhìn vào hoàn cảnh của giai cấp vô sản Việt Nam, những gì họ đang
phải hứng chịu tư nguyên nhân của báo chí, của dư luận viên mà cảm thấy đau
xót, những lều báo, những dư luận viên đang làm cái việc là phản cách mạng, làm
hại đến chính giai cấp vô sản. Nhìn những người công nhân Việt Nam đau đớn vì mất
việc, vì bị bắt bớ, bị tạm giam cùng với những sự kỳ thị, sự trì triết của xã hội
dành cho họ mà cảm thấy đau đớn. Nhìn thấy công nhân Việt Nam đánh nhau công
nhân Trung Quốc mà tự hỏi Marx đã bảo vô sản ở đâu cũng là anh em, là phải đoàn
kết giúp đỡ lẫn nhau để xây dựng xã hội tốt đẹp mà tại sao cùng là vô sản lại bị
kích động làm hại lẫn nhau. Cùng là những con người nghèo khó của xã hội mà tại
sao lại cùng bị như vậy, công nhân Việt Nam bị kỳ thị, công nhân Trung Quốc
cũng bị kỳ thị, hai bên cùng bị bóc lột, bị bần cùng hóa vậy thì tại sao lại
đánh nhau, công nhân Trung Quốc và công nhân Việt Nam không có tội, họ chỉ là
những nạn nhân của cái tuyên truyền của lều báo và dư luận viên. Nghĩ đến đây
không khỏi đau xót rớt nước mắt cho chính giai cấp vô sản, vậy đến khi nào giai
cấp vô sản mới có thể ngẩng mặt lên được với đất nước, với xã hội. Tôi chẳng có
quyền gì, cũng chẳng đại diện cho trí thức tiểu tư sản gì ở đây, nhưng tôi vẫn
muốn gửi đến những người công nhân, những con người của giai cấp vô sản lời xin
lỗi chân thành vì những hậu quả đã gây ra cho chính giai cấp vô sản.
Hà
Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2014
TTCS
Thứ
hai: truyền thông ở Việt Nam đang xây dựng một thứ văn hóa luồn cúi kẻ mạnh, mà
bắt nạ người yếu, thứ văn hóa hạ đạp thượng quỳ. Bạn có thể thấy khắp nơi nhan
nhản trên các báo mạng, truyền thông Việt Nam hoặc dịch bài, hoặc viết bài ra sức
đả phá các quốc gia bé nhỏ, ra sức chê bai các quốc gia yếu thế đang bị chèn
ép, họ viết bài nói xấu từ Bắc Triều Tiên, cho đến Lybia, Iraq, thậm chí còn cả
đất nước anh em Cuba, nước Nga, đất nước đã hiến dâng xương máu vì độc lập cho
Việt Nam. Họ đã quên rằng cái ngày Việt Nam còn yếu thế, còn bị chèn ép thì những
quốc gia này đã từng ủng hộ Việt Nam, đã từng giúp đỡ Việt Nam. Trong khi đó họ
ca ngợi nước Mỹ, ủng họ Mỹ đem bom đạn và quân xâm lược đến các quốc gia này để
giày xéo nhân dân các nước đó, để khủng bố, đàn áp, cưỡng đoạt tài nguyên và dựng
nên những chế độ phát xít ở đây dưới cái vỏ bọc chính quyền tự do dân chủ kiểu
Mỹ. Một thứ văn hóa hiếp đáp kẻ yếu, bợ đít kẻ mạnh đang ngày càng xuất hiện
nhiều ở Việt Nam. Những nhà báo như Ô sin Huy Đức, Đoan Trang, Nguyễn Anh Tuấn
hay những blogger như Nguyễn Ngọc Lập, Nguyễn Xuân Diện đang và là đại diện cho
cả một thế hệ những kẻ làm báo vô lương tâm, vô đạo đức, bợ đít kẻ mạnh và hiếp
đáp kẻ yếu, chỉ biết chạy theo xã hội phù hoa, cướp bóc và làm giàu trên xương
máu người khác.
Thứ
ba: truyền thông Việt Nam đang cổ vũ cho thứ văn hóa ăn chơi Hàn Quốc, bạn có
thể thấy phim Hàn Quốc, nhạc Hàn Quốc hay bài báo về diễn viên Hàn Quốc xuất hiện
nhan nhản trên khắp các báo mạng, cổ vũ cho 1 thứ văn hóa ăn chơi, thứ văn hóa
làm giàu bằng thủ đoạn, cho thứ văn hóa ích kỷ cá nhân. Chúng ta cứ trách cứ giới
trẻ hàng ngày tại sao lại cuồng K-Pop mà bỏ quên chữ hiếu với cha mẹ, bỏ quên
trách nhiệm với xã hội, với đất nước, đó chính là ở lỗi của chúng ta khi chúng
ta hàng ngày tiêm nhiễm vào giới trẻ những bộ phim hay ca nhạc Hàn Quốc như vậy.
Theo ý kiến ngu xuẩn của tôi thà chiếu phim lịch sử Trung Quốc còn hơn là phim
Hàn Quốc vì nó còn dạy con người ta Trung, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu Thân Tôn
Sư. Đừng trách giới trẻ cuồng K-POP khi chính chúng ta đang đầu độc chúng hàng
ngày bằng thứ thuốc phiện đó. Bên cạnh đó truyền thông Việt Nam cũng đang làm mất
đi văn hóa truyền thống, làm con người ta sống mất gốc, quên đi lịch sử dân tộc
thông qua chính chương trình Giai Điệu Tự Hào. Việc họ mời những nhà phê bình,
nhà phân tích nghệ thuật mà chẳng có tý am hiểu về lịch sử đã làm hỏng ý nghĩa
nhân văn của chính những bài hát truyền thống cách mạng một thời, những nhà phê
bình này chỉ biết nêu cái quan điểm cái tôi và phê phán, đả kích những tư tưởng
đoàn kết, tư tưởng sống vì mọi người, tư tưởng xây dựng xã hội trong các bài
hát đó. Có thể nói những con người không am hiểu về tư tưởng, văn hóa, đạo đức
xã hội thì những sự phê bình của họ thật là lố bịch, nhưng truyền thông lại đưa
lên như những nhà phê bình trí thức mà ko hiểu đó là đầu độc giới trẻ bởi những
lối sống ích kỷ.
Thứ
tư: sư tiêm nhiễm văn hóa tự do kiểu Mỹ lớn đến mức có những vị trí thức đòi hợp
pháp hóa nghề mại dâm, đòi cho phép gái mại dâm làm việc công khai và ai trái ý
kiến với họ thì họ cho rằng đó là đạo đức giả. Họ có hiểu rằng đó là việc suy đổi
đạo đức hay không, họ có biết rằng gần 80% gái mại dâm không muốn làm cái nghề
đốn mạt đó không, ai cũng vậy, có mưu cầu hạnh phúc, cũng muốn được xã hội tôn
trọng chứ mấy ai muốn làm cái nghề mạt hạng vậy. Karl Marx trong Tư Bản Luận đã
từng miêu tả sự khốn khổ của gái mại dâm, khi mà họ chính mình không có việc
làm, phải đi làm công việc mạt hạng đó, bị khinh rẻ, ông chỉ ra một nguyên nhân
sâu sắc chính là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản khiến cho nghề mại dâm
càng ngày phổ biến, sự không được sở hữu tư liệu sản xuất khiến từ những xã hội
có giai cấp đã đẻ ra cái nghề mại dâm đó. Vì vậy ta phải giúp họ, phải giúp họ
có việc làm, trao cho họ tư liệu sản xuất, phải giáo dục lại họ để họ có thể
làm người lại một lần nữa chứ không phải là làm cặn bã của xã hội, còn nếu vị
trí thức nào muốn hợp pháp hóa nghề mại dâm, tôi đồng ý với điều kiện để cho mẹ
họ, vợ họ, chị gái họ, em gái họ, con gái của họ đi làm nghề mại dâm đó trước
tiên đi, làm gương cho xã hội trước tiên đi.
3. Về
phương diện tôn giáo tín ngưỡng:
Tôn
giáo và tín ngưỡng là quyền tự do con người, là cách giáo dục để hướng con người
làm thiện, sống thiện, xây dựng xã hội tốt đẹp, nhưng trong chủ nghĩa tư bản
thì sao, vào thời đại văn minh khoa học kỹ thuật nhưng lại tồn tại khắp nơi nạn
mê tín dị đoan và nạn buôn thần bán thánh. Karl Marx không bao giờ phản đối tôn
giáo hay thế giới tâm linh, ông chỉ phủ nhận việc phó thác số phận cho một vị
thần thánh nào đó hoặc coi thế giới này là do thần thánh tạo nên. Từ ngay thời
Marx còn trẻ, ông đã quan sát rất nhiều thế giới tâm linh và ông cho rằng thế
giới này là đồng thể, thống nhất ở tính vật chất nhưng nó gồm nhiều thế giới
đan xen lại với nhau. Ông chỉ gạt bỏ đi cái phương diện duy tâm khách quan của
thế giới tâm linh mà thôi, Marx cũng ủng hộ tôn giáo nếu nó là thứ tôn giáo
hương thiện nhưng ông lại phủ nhận các hình thức tôn giáo để mê hoặc con người,
để hương con người tới mê tín dị đoạn, theo ông đó chỉ là hình thức tôn giáo. Nhưng
hiện nay thì sao, chúng ta tin vào thế giới tâm linh thì tin luôn cả vào những
kẻ buôn thần bán thánh, khắp nơi không ít những kẻ tự xưng là thần thánh, họ mê
hoặc con người, chỉ đạo mọi người để phục vụ cho mục đích cá nhân của họ, cho
danh lợi của họ. Thứ tôn giáo này cũng chính là thuốc phiện của nhân dân, là thứ
ru ngủ nhân dân làm họ quên đi thật sự họ là ai và họ cần làm gì. Vì vậy khi học
thuyết của Marx xuất hiện ở phương Tây, phá vỡ cả trường phái duy tâm và duy vật
cổ điển thì Engels đã ví như lần đầu tiên trong lịch sử con người, con người
tìm lại chính mình là họ là ai, họ cần làm gì. Marx không tuyên chiến với tôn
giáo mà ông tuyên chiến với thứ thuốc phiện của nhân dân ở trên, tôi cảm thấy
đáng buồn khi hiện nay nhiều người lợi dụng thế giới tâm linh để mê hoặc mọi
người, dãn họ vào con đường sai trái để phục vụ lợi ích cho chính những người
đó. Tuy nhiên có lẽ chỉ có một vị thần duy nhất đang chi phối những mối quan hệ
tôn giáo đó chính là vị thần Danh Lợi, họ vì danh lợi mà đem thế giới tâm linh
ra đe dọa mọi người như nào là bùa chú, nào là áp vong, nào là thế hiện năng lực
đặc biệt. Ẩn chưa đằng sau đó là gì, vẫn là Danh Lợi chi phối, nó mạnh đến mức
mà Karl Marx đã từng nói, nếu di tích của các thánh chuyển hóa thành tiền được
thì nó cũng được đem đi bán nốt. Nạn buôn thần bán thánh, xuất hiện nhan nhản ở
các chùa chiền miếu mạo và đừng đằng sau nó vẫn là Tiền, là Danh Lợi. Trở lại
cách đây hơn 100 năm, bài học lịch sử cho ta thấy Trung Quốc thời Mãn Thanh bị
diệt vong, bị các nước khác xâm lược và đô hộ, vì sao, đó là vì Từ Hy Thái Hậu,
Từ Hy Thái Hậu là ai, là người ko tín giáo dục đạo đức, không tin nhân dân, bà
ta chỉ tin vào thần thánh, tin vào những điều mê tín vậy nên bà ta làm Trung Quốc
mất nước. Hiện giờ cũng đang thế, ở Việt Nam, Phật giáo đang bị thương mại hóa,
mất đi cái giáo dục nguyên bản của nó, Nho giáo thì suy đồi thay vào đó là sự
xuất hiện của hàng chục đạo lạ với những Thánh Cô, Thánh Mẫu, Giáo Chủ với các
năng lực đặc biệt hoặc có hoặc không thu hút hàng ngàn tín đồ, cung phụng, cũng
dường cho họ, gây bất ổn xã hội. Vậy thì đã đến lúc chúng ta cần làm gì, cần phải
khôi phục giáo dục truyền thống, khôi phục giáo dục đạo đức xã hội của Nho
giáo, của Phật giáo, kết hợp với khoa học kỹ thuật để con người ta nhận thức rõ
đâu là thế giới tâm linh, đâu là mê tín, để họ biết nghe lời phải, tránh điều
trái không trở thành những kẻ cuồng tín hay phá hoại xã hội nữa. Đó chính là
cái Marx muốn xây dựng ở xã hội chủ nghĩa, một thế giới mà con người sống đạo đức
với nhau với sự lao động hăng say và không còn người bóc lột người nữa.
4. Về
phương diện kinh tế chính trị:
Tiếp
theo là về phương diện kinh tế, có lẽ đây là phương diện mà chúng ta có thể lấy
làm tự hào về với thành quản 30 năm đổi mới. Tuy nhiên 30 năm Đổi Mới kinh tế
đã thay đổi rất nhiều, nhưng cũng có những không ít rủi ro từ đây, 30 năm ta đi
theo đường lối kinh tế thị trường của Tư Bản Chủ Nghĩa thì đã có khá nhiều
thành quả nhưng không ít những hiểm nguy. Bạn thử thấy xem dù 30 năm đã qua,
nhưng Việt Nam vẫn không thể có nổi một nền công nghiệp đích thực, sản xuất vẫn
chủ yếu nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài. Đời sống của người dân có khá lên
nhưng tình trạng thất nghiệp, mất tư liệu sản xuất của nông dân lại đang diễn
ra thường xuyên hơn, đó chính là biểu hiện của sự bần cùng hóa tư bản chủ nghĩa
mà Karl Marx đã nói. Nói về bóc lột, bây giờ rất nhiều nhà kinh tế đã bảo làm
gì còn bóc lột, nhưng bạn thử nghĩ xem công nhân nhà máy Samsung ở Bắc Ninh,
ngày làm việc 12-14 tiếng, thời gian nghỉ cả 1 ngày là 15p buổi, sáng, 15p buổi
chiều 1 tiếng buổi trưa, cuối tháng lương cũng chỉ tầm 3 triệu, vậy có thể bảo
đó là không bóc lột chăng. Tôi thấy nhiều người Việt Nam cứ phê phán công nhân
ăn Việt Nam ăn cắp, tôi không phủ nhận ăn cắp là xấu, cần phải phê phán nhưng
nói đi cũng phải nói lại với mức độ bóc lột như vậy, họ nuôi thân còn chẳng đủ
sống thì làm gì không xảy ra việc công nhân ăn cắp. Chính trong tập I bộ Tư Bản
Karl Marx đã chỉ ra rằng, điều kiện vật chất thiếu thốn, cường độ lao động căng
thẳng đã khiến cho việc đấu tranh tự phát giữa công nhân và chủ tư bản xuất
phát trước tiên là ở ăn cắp, sau đó là bãi công rồi đình công, cái ông phân
tích hoàn toàn không sai.
Một
nước 30 năm là công nghiệp nhưng chưa thể có được công nghiệp hóa, điện khí hóa
đúng nghĩa vì sao, một phần ta tiếp thu tư tưởng kinh tế tư bản, ta muốn xây dựng
một nền kinh tế đi nhanh, nên ta chỉ chú trọng vào phát triển công nghiệp nhẹ
và dịch vụ, không có công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng sản xuất máy móc
không được chú ý. Vậy hệ quả là gì, đó là khoáng sản thì phải bán ra nước ngoài
với giá rẻ, nhập khẩu linh kiện thì đắt mà lại phải lắp ráp, tại Việt Nam, giá
trị thặng dư không cao hưởng lợi từ Việt Nam thì ít. Các chuyên gia IMF hay WB
đến đây luôn tư vấn Việt Nam học theo những mô hình phát triển của Phillippine,
của Thái Lan hay Indonesia là những mô hình kinh tế mà đang ở bẫy thu nhập
trung bình, những quốc gia nghe theo tư vấn của họ, nhưng chính những người như
John Perkin (1 sát thủ kinh tế) hay Joseph Stiglitz một nhà nghiên cứu kinh tế,
chuyên gia kinh tế có lương tâm lại khuyên Việt Nam không nên đi theo mô hình
đó. Tại sao WB hay IMF không khuyên Việt Nam đi theo con đường phát triển giống
Nhật Bản, Trung Quốc vì họ lo sợ kinh tế Việt Nam sẽ lớn mạnh, sẽ ảnh hưởng đến
chính các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ như kinh tế Trung Quốc bây giờ, chính vì vậy
họ không khuyên chúng ta. Ngay trong bộ phim khủng hoảng kinh tế Inside Job các
nhà báo có lương tâm đã chỉ ra những nhà kinh tế như Minskhin hay các nhà kinh
tế nổi tiếng khác đã và đang nhận tiền của các ngân hàng Mỹ, các giới tài phiệt
châu Âu để tư vấn mô hình phát triển sai cho các nước đang phát triển. Vì vậy
các chuyên gia Mỹ khi vào đây, họ tư vấn Việt Nam phát triển theo hướng tư bản
tài chính, tự do hóa tài chính để cho các ngân hàng nước ngoài có thể đầu tư,
có thể tấn công nền tài chính non trẻ Việt Nam và gây ra khủng hoảng để họ hưởng
lợi. Đó chính là các thủ đoạn của tư bản tài chính mà Karl Marx cũng đã miêu tả
rất kỹ trong tập 3 cuốn Tư Bản Luận, nhưng vì chúng ta đã bỏ kinh tế Marx nên
chúng ta không nhận ra điều đó. Nếu cứ theo đà phát triển này, thì tương lai
kinh tế Việt Nam cũng sẽ phải chịu những cú sốc như khủng hoảng kinh tế 1997 ở
châu Á, 1986 ở Mexico hay 2000 ở Achentina và gần đây nhất là khủng hoảng nợ
công châu Âu. Đấy là tương lai mà Marx cũng đã vẽ ra cho những nền kinh tế thuộc
địa, dù là thuộc địa kiểu cũ, hay kiểu mới hay là mới nổi như hiện nay. Trung
Quốc đã biết điều này nên họ không đi theo những mô hình đó, họ tự xây dựng mô
hình của chính họ, mô hình kinh tế thị trường, chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc.
Trên
đây chỉ là những vài dòng những suy nghĩ của tôi và tôi thấy hơn lúc nào hết Việt
Nam đang phải đối mặt với quá nhiều nguy cơ, chúng ta có vàng trong tay mà
không biết dùng vàng, có chủ nghĩa Marx Lenin mà không biết tận dụng, chính những
lúc này là cần thiết để có thể học Marx, để áp dụng Marx cũng như là để dân tộc
chuyển mình, để thay đổi vận mệnh của chính mình. Học Marx chính là để cải tạo
thế giới theo đúng như quy luật của nó, để đời sống con người được tốt hơn ở
chính đây. Đừng xa rời Marx mà lúc này cần nó hơn bao giờ hết, tôi viết bài này
hy vọng có thể đánh thức lại chủ nghĩa Marx đã ngủ quên tại Việt Nam cũng như
có thể thông qua bài này tìm đến những người nghiên cứu chủ nghĩa Marx đồng chí
hướng với tôi. Đã có những đêm nằm cảm thấy đau khổ, rớt nước mắt vì những nguy
cơ dân tộc đang phải đối diện, đã cảm thấy bất lực vì mình không đóng góp được
gì cho đất nước, tôi vẫn làm, vẫn nuôi hy vọng ngày nào đó có thể dùng chính những
học thuyết Marx giúp đỡ đất nước tôi, đất nước của những con người cùng khổ, đất
nước của nhân dân lao động và giai cấp vô sản. Học Marx là để thay đổi vận mệnh
của chính mình và quốc gia mình, tôi không thích tham gia vào những nhóm ghét phản
động hay nói xấu chế độ cụ vì tôi thấy việc này cần thiết hơn rất nhiều và quan
trọng hơn rất nhiều là việc tranh cãi trên mạng. Hy vọng lại có thể tìm thấy những
người nghiên cứu Marx đồng chí hướng và hy vọng Đảng và Nhà nước tạo thêm nhiều
điều kiện cho những người nghiên cứu chủ nghĩa Marx như tôi hoặc bao nười khác
có thể cùng nhau nghiên cứu, xây dựng đất nước.
Kỷ
niệm 196 năm ngày sinh của Karl Marx, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động toàn thế giới.
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2014
TTCS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét