Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

Kỳ 2: Nền báo chí và hệ thống dư luận viên phản cách mạng

Tôi viết bài này có thể sẽ động chạm đến rất nhiều người, thậm chí có những người sẵn sàng quay lưng lại để chửi bới tôi nhưng tôi cảm thấy không thể không nói được. Tôi đã từng nghĩ có thể sẽ im lặng, nhưng cuối cùng tôi nhận ra sự im lặng sẽ chỉ khiến cho mình thêm hèn nhát vì vậy tôi nghĩ rằng tôi phải viết và phải nói ra nó. Mấy ngày gần đây, khi mà cả nước đang xôn xao lên về vụ giàn khoan HD981 của Trung Quốc tại vùng biển Việt Nam cũng như một số các cuộc biểu tình đã diễn ra để phản đối hành động của Trung Quốc. Một số người đã hỏi tôi về vấn đề này nhưng tôi không đưa ra bất kỳ một ý kiến nào cả, đơn giản vì như lần trước đã phân tích, theo ý kiến cá nhân của tôi, Việt Nam cũng giống như 1 người cần chữa bệnh từ bên trong hơn là bên ngoài, cần phải xem xét các vấn đề nội tại trong xã hội Việt Nam là chính. Những vấn đề này tôi đã đề cập đến trong bài viết kỷ niệm 196 năm ngày sinh của Karl Marx. Chính vì vậy tôi tránh việc làm căng thẳng các vấn đề bên ngoài hay như biển Đông, tuy nhiên ngay lúc thời điểm bấy giờ, báo chí liên tục đưa các thông tin về biển Đông cũng như các bình luận của chuyên gia, của các NGOs về Biển Đông cũng như cổ vũ cho biểu tình chống Trung Quốc. Ở một số tờ báo còn đăng các bài viết như thể hiện lòng yêu nước cũng như lớn tiếng dạy dỗ người khác về lòng yêu nước. Lại thêm một số lượng lớn các fan page trên các mạng xã hội hoặc đội ngũ Dư luận viên đông đảo hô hào, chia sẻ thông tin và kêu gọi biểu tình, kêu gọi tảy chay hàng hóa Trung Quốc. Những thức này như kích thích thêm tính tự tôn dân tộc của người Việt Nam lên rất cao. Mỗi người, mỗi ngành nghề lại có những cách chia sẻ thể hiện khác nhau. Thậm chí có một số lều báo còn bám vào những luận điểm như Việt Nam được Mỹ ủng hộ, được quốc tế ủng hộ cần phải kiên quyết. Và chỉ đến khi xảy ra những vụ bạo loạn ở Bình Dương, ở Hà Tĩnh thì lúc này lại thấy các báo chí và các vị trí thức trên mạng quay sang chửi rủa công nhân chúng ta, họ kêu gào là phải bắt các công nhân này, phải bắt những kẻ nổi loạn lại vì họ làm ảnh hưởng đến các nhà đầu tư, làm các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không đầu tư vào Việt Nam và làm xấu mặt hình ảnh của Việt Nam. Rồi ngày hôm nay khi mà đã có thông tin đến hàng trăm người bị bắt ở Bình Dương thì các lều báo, các Dư luận viên lại chia sẻ những hình ảnh đó, họ kêu gọi cần có những hình thức trừng phạt đích đáng cho những người bị bắt và họ quy luôn những người đó là những kẻ kích động là những tổ chức phản động giấu mặt đang phá hoại. Một hiện tượng đang diễn ra và khá phổ biến trên các báo mạng và mạng xã hội tại Việt Nam.
Khi xem đến đây tôi bỗng dưng lại nhớ đến một trích đoạn khá nổi tiếng của Karl Marx trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản như sau: “Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời. Thoạt đầu, cuộc đấu tranh được tiến hành bởi những công nhân riêng lẻ; kế đến, bởi những công nhân cùng một công xưởng; và sau đó, bởi những công nhân cùng một ngành công nghiệp, cùng một địa phương, chống lại người tư sản trực tiếp bóc lột họ. Họ không phải chỉ đả kích vào quan hệ sản xuất tư sản mà còn đánh ngay vào cả công cụ sản xuất nữa; họ phá huỷ hàng ngoại hoá cạnh tranh với họ, đập phá máy móc, đốt các công xưởng và ra sức giành lại địa vị đã mất của người thợ thủ công thời trung cổ….Còn tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối rữa của những tầng lớp bên dưới nhất trong xã hội cũ, thì đây đó, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào, nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho những mưu đồ của phe phản động”. Có những kẻ trí thức lớn tiếng kêu rằng những người công nhân đó là lưu manh, là cặn bã xã hội cần phải trừng trị đích đáng. Nhưng nếu nhìn lại cái phân tích ở trên của Karl Marx thì sao, họ đúng là sự thối rữa của xã hội cũ, họ là vì chính sách cuộc sống cơ cực của mình mà sẽ bị lôi cuốn vào phong trào vô sản, nhưng lại dễ bị bán mình cho phe phản động vì họ thiếu hiểu biết, vì họ quá thiếu thốn, quá khổ sở rồi. Những ai đọc đến đoạn này của Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản mà không nhìn ra được cái bản chất bên trong, cái phân tích sâu sắc của Karl Marx thì không thể thấy được tính nhân đạo của ông, sự phân tích xã hội đúng đến đáng kinh ngạc của ông. Hơn nữa các hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản là thế nào, đó là phá hủy hàng hóa cạnh tranh, là đập phá máy móc, là đốt các công xưởng của chính họ vì theo họ đó là nguồn gốc của bóc lột, không ai chỉ cho họ giác ngộ xem họ cần làm gì, và họ nên làm gì và làm thế nào thì họ sẽ đấu tranh một cách tự phát và hệ quả là như chúng ta đã thấy. Nhưng liệu có ai chịu đứng ra để xem vì sao họ lại thế, họ hành động như thế là nguyên nhân từ đâu. Có lẽ không ai khác là K.Marx và F. Egnels, những người thầy đáng kính của giai cấp vô sản có thể giải thích được điều này
Thứ nhất: cuộc biểu tình biến thành bạo động của công nhân trước hết nó xuất phát từ những mâu thuẫn đã âm ỉ, đã chất chứa, giữa công nhân và những người chủ tại các doanh nghiệp mà đã chất chứa từ rất lâu rồi. Nó giống như ngọn lựa hồng trong đống tro vậy, âm ỉ cháy và chỉ đợi có cơ hội thì bùng phát lên, vì sao lại như vậy, trước hết nó xuất phát từ chính hoàn cảnh cơ cực của công nhân. Chúng ta hãy đến với một số những phân tích của chính Engels trong cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh: “Ở đây, giai cấp công nhân chiếm chừng 78% tổng số cư dân (gần 300.000 người), họ ở những khu phố còn nghèo nàn và ghê tởm hơn cả những hang ổ tồi tệ nhất ở St. Giles và ở Whitechapel, những vùng ngoại ô ở Dublin và những wynds ở Edinburgh. Những khu như thế có rất nhiều ở trung tâm thành phố - ở phía nam Trongate, phía tây Saltmarket, trong khu Calton, sau phố High, v.v.; đó là những ngõ hẹp và những đường ngoắt ngoéo, chằng chịt với nhau, lắt léo không cùng, ở đó cứ vài bước lại gặp những sân hoặc những ngõ cụt, gồm những ngôi nhà cũ kỹ, sắp đổ, những tầng thấp, bí hơi và không có ống nước. Những nhà ấy đúng là chật ních người. Mỗi tầng có ba hoặc bốn gia đình, có khi đến hai chục người, có khi mỗi tầng lại cho thuê làm nhà ngủ trọ, và trong mỗi phòng nhét đến mười lăm, hai mươi người, không thể nói là ở, mà là chồng chất lên nhau. Các khu phố ấy là chỗ nương thân của những kẻ nghèo khổ nhất, trụy lạc nhất, đạo đức đồi bại nhất trong cư dân, và nên xem là chỗ bắt nguồn của những bệnh dịch sốt truyền nhiễm ghê gớm lan tràn ra khắp cả Glasgow…
…Đây cái giới hạn, mức lương tối thiểu, cũng là tương đối: khi trong gia đình mọi người đều đi làm, thì mỗi người có thể kiếm ít đi một chút, và giai cấp tư sản đã tận dụng tối đa cơ hội này: nhờ lao động máy móc, có thể thuê cả phụ nữ và trẻ con vào làm, để hạ thấp tiền lương. Tất nhiên có những gia đình, trong đó không phải ai cũng làm việc được; một gia đình như vậy, sẽ rất khổ, nếu phải làm việc với mức lương tối thiểu, tính cho một gia đình gồm toàn những người có thể làm việc; vì vậy tiền lương được ấn định ở một mức trung bình, với mức này, nhà nào mà mọi người đều đi làm được sẽ sống tương đối khá, còn nhà nào có những người không làm việc được thì sẽ tương đối khổ. Nhưng gặp trường hợp tệ nhất, thì mỗi người lao động đều sẵn sàng từ bỏ chút tiện nghi và văn hoá mà anh ta đã quen thuộc ấy, miễn sao sống được; thà ở một cái chuồng gia súc còn hơn là màn trời chiếu đất; thà quần áo rách rưới còn hơn là không có tí quần áo nào; thà ăn khoai tây còn hơn là chết đói. Với niềm hy vọng ở ngày mai tốt đẹp hơn, họ đành chịu nhận một nửa tiền lương còn hơn là chết đói ở ngoài phố, như bao nhiêu người đã bị tước mất mẩu bánh mì. Cái chút ít ấy, cái "méo mó có hơn không" ấy, chính là tiền lương tối thiểu. Nếu số người lao động nhiều quá mức giai cấp tư sản cần sử dụng, nếu do đó mà qua cuộc cạnh tranh, vẫn còn một số người không tìm được việc làm, thì số ấy cứ việc chết đói; bởi vì nhà tư sản chắc hẳn sẽ không cho họ việc làm, nếu như hắn không kiếm được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm lao động đó….
Trong báo cáo về công xưởng, vẫn có đủ chứng cớ nói lên rằng: cả trong những công xưởng và ở những công nhân làm việc 12-13 giờ mỗi ngày, theo qui định trong đạo luật của ngài J. C. Hobhouse, vẫn luôn xuất hiện những chứng bệnh không nặng lắm: sưng mắt cá; yếu và đau ở chân, hông và cột sống; giãn tĩnh mạch; lở loét ở chân tay; toàn thân suy nhược, đặc biệt là vùng bụng; nôn ọe, chán ăn, có khi lại đói cồn cào, khó tiêu; chứng u uất; các bệnh phổi, do bụi và không khí xấu của công xưởng gây ra, v.v. và v.v. Về mặt này, nên chú ý đặc biệt tới những báo cáo ở Glasgow và Manchester. Những bệnh ấy vẫn còn sau khi có đạo luật năm 1833, và đến nay chúng vẫn tiếp tục phá hoại sức khỏe của giai cấp công nhân. Người ta chỉ quan tâm đến việc khoác một cái áo văn minh giả nhân giả nghĩa, lên lòng tham lợi nhuận thô bỉ của giai cấp tư sản; dùng luật pháp để không cho chủ xưởng gây ra những việc tệ hại quá lộ liễu, giúp họ có thêm lí do để lừa bịp và tự mãn về cái chủ nghĩa nhân đạo giả dối của họ, thế thôi. Nếu ngày nay lại cử một tiểu ban mới để điều tra về công xưởng, thì họ sẽ thấy tình hình phần lớn vẫn như xưa. Còn việc phổ cập giáo dục, mà đạo luật đề ra nhưng không có chuẩn bị trước, thì chưa có tác dụng, vì chính phủ không đồng thời nghĩ cách xây dựng những trường tốt. Các chủ xưởng thuê vài công nhân mất năng lực lao động làm giáo viên, trông coi lũ trẻ hai giờ mỗi ngày, cho rằng thế là đúng theo pháp luật; nhưng bọn trẻ không học được gì. Ngay cả những báo cáo của các thanh tra công xưởng, dù chỉ hạn chế ở mức thi hành phận sự, tức là kiểm tra xem chủ xưởng có tuân theo đạo luật về công xưởng hay không; cũng đưa ra đủ tài liệu để chứng tỏ rằng, những điều tệ hại nói trên vẫn tiếp tục tồn tại, như một tất yếu. Các thanh tra Horner và Saunders, trong những báo cáo tháng Mười và tháng Chạp 1843 của họ, nói rằng: trong các ngành không dùng trẻ em hoặc có thể thay chúng bằng người lớn thất nghiệp, nhiều chủ xưởng vẫn bắt công nhân làm mỗi ngày 14-16 giờ, và hơn nữa. Trong số công nhân của các ngành ấy, có rất nhiều người chỉ vừa mới vượt quá tuổi được pháp luật bảo hộ. Nhiều chủ xưởng khác cố ý phạm luật: họ rút ngắn giờ nghỉ, bắt trẻ em làm việc quá thời gian pháp luật cho phép, sẵn sàng ra tòa chịu phạt, vì tiền phạt chẳng đáng là bao so với món lợi mà họ thu được từ việc phạm luật đó. Nhất là hiện tại, khi đang kinh doanh rất tốt, thì chủ xưởng càng bị cám dỗ mạnh.”.
Đọc những đoạn trích trên, liệu bạn nghĩ rằng những gì Engels viết có lẽ là những gì xa xôi chăng, là những thứ xưa cũ chăng, vậy tôi xin bảo bạn sai rồi, bạn có bao giờ thử vào thăm 1 nhà máy sản xuất điện thoại Sam Sung xem, công nhân lao động từ 12h cho đến 14h một ngày và thông thường họ chỉ được nghỉ 15 phút ca sáng, 15 phút ca chiều và 1 tiếng vào buổi trưa để ăn. Với một thời gian lao động và cường độ lao động như vậy nhưng công nhân Việt Nam chỉ lĩnh khoảng tiền lương từ 3 đến 3,5 triệu VNĐ/tháng. Một con số mà họ phải ăn tiêu vô cùng tiết kiệm mới có thể đủ sống và có chút tiền dành để cho gia đình. Công nhân Việt Nam cũng phải sống trong những khu nhà thiếu thốn, những khu trọ cho thuê mà đời sống sinh hoạt rất thấp, tôi có một anh bạn từng làm  trong công ty xây dựng của Hàn Quốc nhưng thường phải sống trọ với điều kiện thiếu thốn, trong khi đó lại thường xuyên làm việc từ 7h sáng đến 9h tối kèm theo việc cúp lương, hoặc nợ lương là diễn ra thường xuyên. Không chỉ Sam Sung mà bạn đến bất kỳ một khu công nghiệp nước ngoài nào thì tình cảnh cũng gần giống như thế mà không khác nhau là mấy. Một cuộc điều tra thống kê tại Việt Nam và được đưa lên kênh thông tin tài chính của VTV đã cho thấy số doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội nhiều nhất ở Việt Nam lại là các doanh nghiệp FDI, số doanh nghiệp trốn thuế nhiều nhất cũng là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp có mức lương trung bình thấp nhất của Việt Nam cũng là FDI. Nhiều người cho rằng làm trong doanh nghiệp nước ngoài thì lương cao, nhưng đó chỉ là bộ phận văn phòng, còn nếu là làm công nhân thì sẽ không có mức đó, và để tính mức lương trung bình trong từng khu vực thì họ sẽ tính tổng quỹ lương chia cho tổng số người lao động. Qua đó ta có thể thấy rằng thực sự đời sống công nhân Việt Nam đặc biệt làm trong các doanh nghiệp FDI hoàn toàn không hề dễ dàng tý nào, nếu không muốn nói là khổ cực, chưa kể việc tăng ca, tăng giờ làm và nợ lương là thường xuyên. Điều kiện vật chất như vậy nên đã là nguyên nhân chính dẫn đến tồn tại những mâu thuẫn giữa công nhân và các chủ doanh nghiệp.
Thứ hai: việc nổi loạn của công nhân tại các khu công nghiệp thuộc Bình Dương và Hà Tĩnh cũng xuất phát từ việc báo chí, và mạng xã hội liên tục tuyên truyền chống Trung Quốc. Đây là điều chắc chắn, bất kỳ báo mạng nào của Việt Nam mà không có những bài viết về Trung Quốc và biển đảo, ở đây tôi không bàn đến các vấn đề chính trị mà chỉ nói đến tuyên truyền. Bạn lật thử một trang báo mạng hay các diễn đàn trên mạng xã hội thử xem, đâu đâu cũng có Trung Quốc và 90% các tin này sẽ là: xã hội Trung Quốc vô cảm – hàng hóa Trung Quốc độc hại – thương lái Trung Quốc lừa Việt Nam – Trung Quốc chiếm biển đảo Việt Nam. 90% các tin đưa về Trung Quốc đều chỉ là những thông tin xấu, trong khi đó gần như Việt Nam không nhìn thấy Trung Quốc 1 điểm tốt nào, có chăng cùng lắm là các phát biểu của Trung Quốc trên trường quốc tế. Hệ thống tuyên truyền này nối từ năm này qua năm khác, kéo dài liên tục hàng ngày hàng tháng nó đã làm gì, đã in sâu vào trong tư tưởng người dân Việt Nam rằng Trung Quốc là xấu xa, là mọi rợ, là dân tộc bất lương, đểu giả nhất trên thế giới. Hãy hỏi người Việt Nam xem, cứ nói đến người Trung Quốc là họ sẽ nghĩ ngay đến đó là người bá quyền, là người đểu giả, là lừa đảo, nó in hằn vào tâm trí người Việt Nam. Đã yêu thì yêu cả đường đi, nhưng ghét thì ghét cả tông ti họ hàng vì thế tâm lý bài Trung Quốc đã trở thành truyền thống của Việt Nam. Nhưng trong khi đó các báo mạng của Việt Nam thì sao, tuyên truyền hộ rằng Mỹ là quốc gia tốt đẹp, là thiên đường của hạ giới, là quốc gia của chính nghĩa trên thế giới, vì thế khi Mỹ ủng hộ Việt Nam thì tức là Việt Nam cứ yên tâm mà chống Trung Quốc, có Mỹ đằng sau. Sự tuyên truyền này cũng kéo dài quanh năm suốt tháng và nó đã kích động lên làn sóng biểu tình, bạo động chống Trung Quốc. Giờ trong tâm lý của người Việt Nam đã được nhồi nhét một tư tưởng đó là bài Trung Quốc và sùng bái Mỹ. Cũng đúng thôi những thông tin như thế thường là rất nhiều người xem, mà nhiều người xem thì đồng nghĩa tăng lợi nhuận cho báo mạng, vì vậy họ càng phải đưa tin, đưa thật nhiều và cũng không cần kiểm chứng nguồn thông tin. Cái họ quan tâm là tiền, là lợi nhuận vì vậy họ phải đưa tin như vậy. Trong khi đó ở Việt Nam cũng có đông đảo một đội ngũ các vị tự nhận là dư luận viên trên mạng và họ tự tuyên truyền cái chủ nghĩa bài Trung Quốc trên mạng, họ có thể là già có, trẻ có, trung niên đều có, họ nêu cao ngọn cờ ủng hộ cái biểu tình chống Trung Quốc, dù họ phản đối các hành động của Việt Tân, của phản động, của nhóm No-U nhưng họ cũng vẫn hành động như vậy. Họ cho rằng đấy là cách khẩu hiểu thể hiện lòng yêu nước của họ, là họ cho đó là yêu nước. Xin thưa là vâng cách vị có cách thể hiện lòng yêu nước của các vị thì người công nhân, nông dân cũng có cách thể hiện lòng yêu nước của họ, đó là bãi công, là đập phá máy móc.
Từ hai nguyên nhân trên thì cái gì đến cuối cùng cũng phải đến, người công nhân ở các khu công nghiệp đã vùng lên, họ biểu tình, họ đập phá nhà máy, họ cướp các tài sản, đừng trách họ vì họ là vô sản, họ không được dạy học đến nơi đến chốn và họ chỉ hành động theo cảm tính và họ nghĩ đó là hành động biểu hiện yêu nước. Họ có phân được Trung Quốc và các nước Đông Á khác đâu, họ chỉ biết họ đang bị bóc lột thậm tệ ở các doanh nghiệp đó, họ thấy rằng ông chủ ở đó là da vàng tóc đen, là viết chữ toàn hình vuông thì hình tròn thì đều là Trung Quốc hết, họ quy tất cả người Nhật Bản, người Đài Loan, người Hàn Quốc, người Singapore đều là Trung Quốc hết, họ thấy rằng họ đã bị bóc lột, mà dân tộc đó lại còn đang chiếm biển đảo của họ, vì vậy họ phải vùng lên đấu tranh, họ phải cướp lại những gì thuộc về họ, về người Việt Nam. Không những thế cái chủ nghĩa dân tộc lên cao đến mức người vô sản phân biệt dân tộc đến mức kỳ thị, họ đánh cả những người vô sản khác đến từ Trung Quốc, những người công nhân cùng khổ như họ nhưng phải tha phương cầu thực vì miếng cơm manh áo. Sự kỳ thị trỗi dậy đến khủng khiếp với một tâm lý dân tộc cực đoan, họ tấn công chính những người cũng ở cùng hoàn cảnh như họ. Và rồi kết quả sau cùng người công nhân được gì: những thành quả lao động bao năm của họ bị mất, việc làm bị mất, tiền lương không được trả và đời sống bấp bênh lại càng bấp bênh hơn, họ đứng trước nguy nghèo đói và thất nghiệp, những lưỡi dao đang kề cổ họ. Họ bị lều báo, bị dư luận viên trì triết bảo rằng họ là loại phá hoại đất nước, là loại cần phải đi tù là loại phá hoại ổn định xã hội và làm xấu mặt hình tượng quốc gia. Vâng vậy tôi đặt câu hỏi là sao các lều báo, các dư luận viên không hướng dẫn họ kỹ trước khi họ biểu tình đi, các vị có học thức cơ mà, có trí tuệ cơ mà sao không giúp đỡ họ hiểu đi, chỉ đến khi họ xảy ra truyện rồi thì các vị lại quay sang để nói xấu họ, để nhục mạ người công nhân. Hiện tượng này làm tôi nhớ đến những gì K. Marx từng viết trong cuốn Cách Mạng và phản Cách Mạn ở Đức là vô cùng đúng về cái gọi là tầng lớp trí thức tiểu tư sản này: “Giai cấp tiểu tư sản, vĩ đại về mặt khoe khoang, lại rất không có khả năng hành động và lẩn tránh một cách nhút nhát khi cần phải làm một cái gì nguy hiểm. Tính chất nhỏ nhen của những việc giao dịch buôn bán và những hoạt động tín dụng của nó đã ảnh hưởng sâu sắc tới tính cách riêng của nó khiến cho tính cách này mang dấu ấn của sự thiếu nghị lực và thiếu tinh thần tháo vát, vì vậy phải thấy trước rằng hoạt động chính trị của nó sẽ mang những đặc điểm ấy. Nên trên thực tế, giai cấp tiểu tư sản đã khuyến khích cuộc khởi nghĩa bằng những lời lẽ trống rỗng và những lời huênh hoang về những điều nó quyết định làm; khi hoàn toàn trái với ý muốn của nó, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, thì nó vội đoạt lấy chính quyền; nhưng nó chỉ sử dụng chính quyền đó để thủ tiêu những kết quả của khởi nghĩa. ở bất cứ nơi nào mà một cuộc xung đột vũ trang đã đưa tình hình đến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng thì bọn tiểu tư sản đều khiếp sợ tình hình nguy hiểm đối với chúng; khiếp sợ thấy dân chúng coi trọng những lời kêu gọi chiến đấu huênh hoang của chúng, khiếp sợ thấy chính quyền rơi vào chính tay mình; và khiếp sợ nhất trước những hậu quả của chính sách mà chúng buộc phải thi hành, - những hậu quả sẽ đem lại không những cho bản thân chúng, mà còn cho địa vị xã hội và cho tài sản của chúng. Há chẳng phải là người ta đang chờ chúng thực sự hy sinh "tính mạng và tài sản", như chúng thường quen nói, cho sự nghiệp khởi nghĩa đó sao? Há chẳng phải là chúng đã bị bắt buộc phải giữ những chức vụ chính thức trong cuộc khởi nghĩa, khiến cho chúng sẽ gặp phải mối nguy mất cơ nghiệp khi khởi nghĩa thất bại, đó sao?”. Tôi xin nói thẳng nếu có chiến tranh xảy ra thì những kẻ trí thức tiểu tư sản đó cũng sẽ lại là những kẻ nầm xấp hô xung phong, còn ai lên đường chiến đấu, là quân đội, là bình lính là những người mà tầng lớp xuất thân của họ là từ giai cấp vô sản, từ công nhân và nông dân mà ra. Còn khi xảy ra hậu quả thì sao, vâng giai cấp tiểu tư sản lo sợ về những thiệt hại mà giai cấp vô sản gây ra, họ lo lắng rằng nhà đầu tư nước ngoài không đến Việt Nam, họ lo sợ đời sống sẽ bị sụt giảm, hình ảnh đất nước bị xấu đi vì người vô sản nên họ quay sang quy kết tội cho người vô sản và tổ chức phản động. Nhưng nói thật tổ chức phản động nó chỉ làm nột cái công việc là đổ thêm giọt nước tràn ly thôi, còn việc làm đầy cái ly là do những lều báo, những dư luận viên đã làm trước đó. Người công nhân và giai cấp vô sản chỉ là hệ quả của cái việc tuyên truyền đó thôi và giờ đây họ đang phải chịu cái gọi là búa rìu dư luận.
Nhưng cuối cùng nghĩ cho kỹ mà xem, cái áo tôi đang mặc do ai làm ra, là do công nhân làm ra, bát cơm tôi ăn là do ai làm ra, là do nông dân làm ra. Dụng cụ tôi dùng đều do công nhân – nông dân hay là do giai cấp vô sản làm ra trong đó có công sức lao động, có máu và nước mắt của chính giai cấp vô sản kết tinh trong những hàng hóa mà tôi dùng hàng ngày, tôi chưa làm gì đóng góp được cho họ, chưa giúp họ cải thiện được đời sống, tôi phải thấy xấu hố vì chính bản thân mình. Nhưng ngày hôm nay nhìn vào hoàn cảnh của giai cấp vô sản Việt Nam, những gì họ đang phải hứng chịu tư nguyên nhân của báo chí, của dư luận viên mà cảm thấy đau xót, những lều báo, những dư luận viên đang làm cái việc là phản cách mạng, làm hại đến chính giai cấp vô sản. Nhìn những người công nhân Việt Nam đau đớn vì mất việc, vì bị bắt bớ, bị tạm giam cùng với những sự kỳ thị, sự trì triết của xã hội dành cho họ mà cảm thấy đau đớn. Nhìn thấy công nhân Việt Nam đánh nhau công nhân Trung Quốc mà tự hỏi Marx đã bảo vô sản ở đâu cũng là anh em, là phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để xây dựng xã hội tốt đẹp mà tại sao cùng là vô sản lại bị kích động làm hại lẫn nhau. Cùng là những con người nghèo khó của xã hội mà tại sao lại cùng bị như vậy, công nhân Việt Nam bị kỳ thị, công nhân Trung Quốc cũng bị kỳ thị, hai bên cùng bị bóc lột, bị bần cùng hóa vậy thì tại sao lại đánh nhau, công nhân Trung Quốc và công nhân Việt Nam không có tội, họ chỉ là những nạn nhân của cái tuyên truyền của lều báo và dư luận viên. Nghĩ đến đây không khỏi đau xót rớt nước mắt cho chính giai cấp vô sản, vậy đến khi nào giai cấp vô sản mới có thể ngẩng mặt lên được với đất nước, với xã hội. Tôi chẳng có quyền gì, cũng chẳng đại diện cho trí thức tiểu tư sản gì ở đây, nhưng tôi vẫn muốn gửi đến những người công nhân, những con người của giai cấp vô sản lời xin lỗi chân thành vì những hậu quả đã gây ra cho chính giai cấp vô sản.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2014
                                                                                                         TTCS 

nó. T� � n �: ��9 ủa Việt Nam đã và đang trở thành cái ổ của tệ nạn xã hội và góp phần thúc đẩy tệ nạn xã hội.

Thứ hai: truyền thông ở Việt Nam đang xây dựng một thứ văn hóa luồn cúi kẻ mạnh, mà bắt nạ người yếu, thứ văn hóa hạ đạp thượng quỳ. Bạn có thể thấy khắp nơi nhan nhản trên các báo mạng, truyền thông Việt Nam hoặc dịch bài, hoặc viết bài ra sức đả phá các quốc gia bé nhỏ, ra sức chê bai các quốc gia yếu thế đang bị chèn ép, họ viết bài nói xấu từ Bắc Triều Tiên, cho đến Lybia, Iraq, thậm chí còn cả đất nước anh em Cuba, nước Nga, đất nước đã hiến dâng xương máu vì độc lập cho Việt Nam. Họ đã quên rằng cái ngày Việt Nam còn yếu thế, còn bị chèn ép thì những quốc gia này đã từng ủng hộ Việt Nam, đã từng giúp đỡ Việt Nam. Trong khi đó họ ca ngợi nước Mỹ, ủng họ Mỹ đem bom đạn và quân xâm lược đến các quốc gia này để giày xéo nhân dân các nước đó, để khủng bố, đàn áp, cưỡng đoạt tài nguyên và dựng nên những chế độ phát xít ở đây dưới cái vỏ bọc chính quyền tự do dân chủ kiểu Mỹ. Một thứ văn hóa hiếp đáp kẻ yếu, bợ đít kẻ mạnh đang ngày càng xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Những nhà báo như Ô sin Huy Đức, Đoan Trang, Nguyễn Anh Tuấn hay những blogger như Nguyễn Ngọc Lập, Nguyễn Xuân Diện đang và là đại diện cho cả một thế hệ những kẻ làm báo vô lương tâm, vô đạo đức, bợ đít kẻ mạnh và hiếp đáp kẻ yếu, chỉ biết chạy theo xã hội phù hoa, cướp bóc và làm giàu trên xương máu người khác.
Thứ ba: truyền thông Việt Nam đang cổ vũ cho thứ văn hóa ăn chơi Hàn Quốc, bạn có thể thấy phim Hàn Quốc, nhạc Hàn Quốc hay bài báo về diễn viên Hàn Quốc xuất hiện nhan nhản trên khắp các báo mạng, cổ vũ cho 1 thứ văn hóa ăn chơi, thứ văn hóa làm giàu bằng thủ đoạn, cho thứ văn hóa ích kỷ cá nhân. Chúng ta cứ trách cứ giới trẻ hàng ngày tại sao lại cuồng K-Pop mà bỏ quên chữ hiếu với cha mẹ, bỏ quên trách nhiệm với xã hội, với đất nước, đó chính là ở lỗi của chúng ta khi chúng ta hàng ngày tiêm nhiễm vào giới trẻ những bộ phim hay ca nhạc Hàn Quốc như vậy. Theo ý kiến ngu xuẩn của tôi thà chiếu phim lịch sử Trung Quốc còn hơn là phim Hàn Quốc vì nó còn dạy con người ta Trung, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu Thân Tôn Sư. Đừng trách giới trẻ cuồng K-POP khi chính chúng ta đang đầu độc chúng hàng ngày bằng thứ thuốc phiện đó. Bên cạnh đó truyền thông Việt Nam cũng đang làm mất đi văn hóa truyền thống, làm con người ta sống mất gốc, quên đi lịch sử dân tộc thông qua chính chương trình Giai Điệu Tự Hào. Việc họ mời những nhà phê bình, nhà phân tích nghệ thuật mà chẳng có tý am hiểu về lịch sử đã làm hỏng ý nghĩa nhân văn của chính những bài hát truyền thống cách mạng một thời, những nhà phê bình này chỉ biết nêu cái quan điểm cái tôi và phê phán, đả kích những tư tưởng đoàn kết, tư tưởng sống vì mọi người, tư tưởng xây dựng xã hội trong các bài hát đó. Có thể nói những con người không am hiểu về tư tưởng, văn hóa, đạo đức xã hội thì những sự phê bình của họ thật là lố bịch, nhưng truyền thông lại đưa lên như những nhà phê bình trí thức mà ko hiểu đó là đầu độc giới trẻ bởi những lối sống ích kỷ.
Thứ tư: sư tiêm nhiễm văn hóa tự do kiểu Mỹ lớn đến mức có những vị trí thức đòi hợp pháp hóa nghề mại dâm, đòi cho phép gái mại dâm làm việc công khai và ai trái ý kiến với họ thì họ cho rằng đó là đạo đức giả. Họ có hiểu rằng đó là việc suy đổi đạo đức hay không, họ có biết rằng gần 80% gái mại dâm không muốn làm cái nghề đốn mạt đó không, ai cũng vậy, có mưu cầu hạnh phúc, cũng muốn được xã hội tôn trọng chứ mấy ai muốn làm cái nghề mạt hạng vậy. Karl Marx trong Tư Bản Luận đã từng miêu tả sự khốn khổ của gái mại dâm, khi mà họ chính mình không có việc làm, phải đi làm công việc mạt hạng đó, bị khinh rẻ, ông chỉ ra một nguyên nhân sâu sắc chính là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản khiến cho nghề mại dâm càng ngày phổ biến, sự không được sở hữu tư liệu sản xuất khiến từ những xã hội có giai cấp đã đẻ ra cái nghề mại dâm đó. Vì vậy ta phải giúp họ, phải giúp họ có việc làm, trao cho họ tư liệu sản xuất, phải giáo dục lại họ để họ có thể làm người lại một lần nữa chứ không phải là làm cặn bã của xã hội, còn nếu vị trí thức nào muốn hợp pháp hóa nghề mại dâm, tôi đồng ý với điều kiện để cho mẹ họ, vợ họ, chị gái họ, em gái họ, con gái của họ đi làm nghề mại dâm đó trước tiên đi, làm gương cho xã hội trước tiên đi.
3.    Về phương diện tôn giáo tín ngưỡng:
Tôn giáo và tín ngưỡng là quyền tự do con người, là cách giáo dục để hướng con người làm thiện, sống thiện, xây dựng xã hội tốt đẹp, nhưng trong chủ nghĩa tư bản thì sao, vào thời đại văn minh khoa học kỹ thuật nhưng lại tồn tại khắp nơi nạn mê tín dị đoan và nạn buôn thần bán thánh. Karl Marx không bao giờ phản đối tôn giáo hay thế giới tâm linh, ông chỉ phủ nhận việc phó thác số phận cho một vị thần thánh nào đó hoặc coi thế giới này là do thần thánh tạo nên. Từ ngay thời Marx còn trẻ, ông đã quan sát rất nhiều thế giới tâm linh và ông cho rằng thế giới này là đồng thể, thống nhất ở tính vật chất nhưng nó gồm nhiều thế giới đan xen lại với nhau. Ông chỉ gạt bỏ đi cái phương diện duy tâm khách quan của thế giới tâm linh mà thôi, Marx cũng ủng hộ tôn giáo nếu nó là thứ tôn giáo hương thiện nhưng ông lại phủ nhận các hình thức tôn giáo để mê hoặc con người, để hương con người tới mê tín dị đoạn, theo ông đó chỉ là hình thức tôn giáo. Nhưng hiện nay thì sao, chúng ta tin vào thế giới tâm linh thì tin luôn cả vào những kẻ buôn thần bán thánh, khắp nơi không ít những kẻ tự xưng là thần thánh, họ mê hoặc con người, chỉ đạo mọi người để phục vụ cho mục đích cá nhân của họ, cho danh lợi của họ. Thứ tôn giáo này cũng chính là thuốc phiện của nhân dân, là thứ ru ngủ nhân dân làm họ quên đi thật sự họ là ai và họ cần làm gì. Vì vậy khi học thuyết của Marx xuất hiện ở phương Tây, phá vỡ cả trường phái duy tâm và duy vật cổ điển thì Engels đã ví như lần đầu tiên trong lịch sử con người, con người tìm lại chính mình là họ là ai, họ cần làm gì. Marx không tuyên chiến với tôn giáo mà ông tuyên chiến với thứ thuốc phiện của nhân dân ở trên, tôi cảm thấy đáng buồn khi hiện nay nhiều người lợi dụng thế giới tâm linh để mê hoặc mọi người, dãn họ vào con đường sai trái để phục vụ lợi ích cho chính những người đó. Tuy nhiên có lẽ chỉ có một vị thần duy nhất đang chi phối những mối quan hệ tôn giáo đó chính là vị thần Danh Lợi, họ vì danh lợi mà đem thế giới tâm linh ra đe dọa mọi người như nào là bùa chú, nào là áp vong, nào là thế hiện năng lực đặc biệt. Ẩn chưa đằng sau đó là gì, vẫn là Danh Lợi chi phối, nó mạnh đến mức mà Karl Marx đã từng nói, nếu di tích của các thánh chuyển hóa thành tiền được thì nó cũng được đem đi bán nốt. Nạn buôn thần bán thánh, xuất hiện nhan nhản ở các chùa chiền miếu mạo và đừng đằng sau nó vẫn là Tiền, là Danh Lợi. Trở lại cách đây hơn 100 năm, bài học lịch sử cho ta thấy Trung Quốc thời Mãn Thanh bị diệt vong, bị các nước khác xâm lược và đô hộ, vì sao, đó là vì Từ Hy Thái Hậu, Từ Hy Thái Hậu là ai, là người ko tín giáo dục đạo đức, không tin nhân dân, bà ta chỉ tin vào thần thánh, tin vào những điều mê tín vậy nên bà ta làm Trung Quốc mất nước. Hiện giờ cũng đang thế, ở Việt Nam, Phật giáo đang bị thương mại hóa, mất đi cái giáo dục nguyên bản của nó, Nho giáo thì suy đồi thay vào đó là sự xuất hiện của hàng chục đạo lạ với những Thánh Cô, Thánh Mẫu, Giáo Chủ với các năng lực đặc biệt hoặc có hoặc không thu hút hàng ngàn tín đồ, cung phụng, cũng dường cho họ, gây bất ổn xã hội. Vậy thì đã đến lúc chúng ta cần làm gì, cần phải khôi phục giáo dục truyền thống, khôi phục giáo dục đạo đức xã hội của Nho giáo, của Phật giáo, kết hợp với khoa học kỹ thuật để con người ta nhận thức rõ đâu là thế giới tâm linh, đâu là mê tín, để họ biết nghe lời phải, tránh điều trái không trở thành những kẻ cuồng tín hay phá hoại xã hội nữa. Đó chính là cái Marx muốn xây dựng ở xã hội chủ nghĩa, một thế giới mà con người sống đạo đức với nhau với sự lao động hăng say và không còn người bóc lột người nữa.
4.    Về phương diện kinh tế chính trị:
Tiếp theo là về phương diện kinh tế, có lẽ đây là phương diện mà chúng ta có thể lấy làm tự hào về với thành quản 30 năm đổi mới. Tuy nhiên 30 năm Đổi Mới kinh tế đã thay đổi rất nhiều, nhưng cũng có những không ít rủi ro từ đây, 30 năm ta đi theo đường lối kinh tế thị trường của Tư Bản Chủ Nghĩa thì đã có khá nhiều thành quả nhưng không ít những hiểm nguy. Bạn thử thấy xem dù 30 năm đã qua, nhưng Việt Nam vẫn không thể có nổi một nền công nghiệp đích thực, sản xuất vẫn chủ yếu nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài. Đời sống của người dân có khá lên nhưng tình trạng thất nghiệp, mất tư liệu sản xuất của nông dân lại đang diễn ra thường xuyên hơn, đó chính là biểu hiện của sự bần cùng hóa tư bản chủ nghĩa mà Karl Marx đã nói. Nói về bóc lột, bây giờ rất nhiều nhà kinh tế đã bảo làm gì còn bóc lột, nhưng bạn thử nghĩ xem công nhân nhà máy Samsung ở Bắc Ninh, ngày làm việc 12-14 tiếng, thời gian nghỉ cả 1 ngày là 15p buổi, sáng, 15p buổi chiều 1 tiếng buổi trưa, cuối tháng lương cũng chỉ tầm 3 triệu, vậy có thể bảo đó là không bóc lột chăng. Tôi thấy nhiều người Việt Nam cứ phê phán công nhân ăn Việt Nam ăn cắp, tôi không phủ nhận ăn cắp là xấu, cần phải phê phán nhưng nói đi cũng phải nói lại với mức độ bóc lột như vậy, họ nuôi thân còn chẳng đủ sống thì làm gì không xảy ra việc công nhân ăn cắp. Chính trong tập I bộ Tư Bản Karl Marx đã chỉ ra rằng, điều kiện vật chất thiếu thốn, cường độ lao động căng thẳng đã khiến cho việc đấu tranh tự phát giữa công nhân và chủ tư bản xuất phát trước tiên là ở ăn cắp, sau đó là bãi công rồi đình công, cái ông phân tích hoàn toàn không sai.
Một nước 30 năm là công nghiệp nhưng chưa thể có được công nghiệp hóa, điện khí hóa đúng nghĩa vì sao, một phần ta tiếp thu tư tưởng kinh tế tư bản, ta muốn xây dựng một nền kinh tế đi nhanh, nên ta chỉ chú trọng vào phát triển công nghiệp nhẹ và dịch vụ, không có công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng sản xuất máy móc không được chú ý. Vậy hệ quả là gì, đó là khoáng sản thì phải bán ra nước ngoài với giá rẻ, nhập khẩu linh kiện thì đắt mà lại phải lắp ráp, tại Việt Nam, giá trị thặng dư không cao hưởng lợi từ Việt Nam thì ít. Các chuyên gia IMF hay WB đến đây luôn tư vấn Việt Nam học theo những mô hình phát triển của Phillippine, của Thái Lan hay Indonesia là những mô hình kinh tế mà đang ở bẫy thu nhập trung bình, những quốc gia nghe theo tư vấn của họ, nhưng chính những người như John Perkin (1 sát thủ kinh tế) hay Joseph Stiglitz một nhà nghiên cứu kinh tế, chuyên gia kinh tế có lương tâm lại khuyên Việt Nam không nên đi theo mô hình đó. Tại sao WB hay IMF không khuyên Việt Nam đi theo con đường phát triển giống Nhật Bản, Trung Quốc vì họ lo sợ kinh tế Việt Nam sẽ lớn mạnh, sẽ ảnh hưởng đến chính các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ như kinh tế Trung Quốc bây giờ, chính vì vậy họ không khuyên chúng ta. Ngay trong bộ phim khủng hoảng kinh tế Inside Job các nhà báo có lương tâm đã chỉ ra những nhà kinh tế như Minskhin hay các nhà kinh tế nổi tiếng khác đã và đang nhận tiền của các ngân hàng Mỹ, các giới tài phiệt châu Âu để tư vấn mô hình phát triển sai cho các nước đang phát triển. Vì vậy các chuyên gia Mỹ khi vào đây, họ tư vấn Việt Nam phát triển theo hướng tư bản tài chính, tự do hóa tài chính để cho các ngân hàng nước ngoài có thể đầu tư, có thể tấn công nền tài chính non trẻ Việt Nam và gây ra khủng hoảng để họ hưởng lợi. Đó chính là các thủ đoạn của tư bản tài chính mà Karl Marx cũng đã miêu tả rất kỹ trong tập 3 cuốn Tư Bản Luận, nhưng vì chúng ta đã bỏ kinh tế Marx nên chúng ta không nhận ra điều đó. Nếu cứ theo đà phát triển này, thì tương lai kinh tế Việt Nam cũng sẽ phải chịu những cú sốc như khủng hoảng kinh tế 1997 ở châu Á, 1986 ở Mexico hay 2000 ở Achentina và gần đây nhất là khủng hoảng nợ công châu Âu. Đấy là tương lai mà Marx cũng đã vẽ ra cho những nền kinh tế thuộc địa, dù là thuộc địa kiểu cũ, hay kiểu mới hay là mới nổi như hiện nay. Trung Quốc đã biết điều này nên họ không đi theo những mô hình đó, họ tự xây dựng mô hình của chính họ, mô hình kinh tế thị trường, chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.

Trên đây chỉ là những vài dòng những suy nghĩ của tôi và tôi thấy hơn lúc nào hết Việt Nam đang phải đối mặt với quá nhiều nguy cơ, chúng ta có vàng trong tay mà không biết dùng vàng, có chủ nghĩa Marx Lenin mà không biết tận dụng, chính những lúc này là cần thiết để có thể học Marx, để áp dụng Marx cũng như là để dân tộc chuyển mình, để thay đổi vận mệnh của chính mình. Học Marx chính là để cải tạo thế giới theo đúng như quy luật của nó, để đời sống con người được tốt hơn ở chính đây. Đừng xa rời Marx mà lúc này cần nó hơn bao giờ hết, tôi viết bài này hy vọng có thể đánh thức lại chủ nghĩa Marx đã ngủ quên tại Việt Nam cũng như có thể thông qua bài này tìm đến những người nghiên cứu chủ nghĩa Marx đồng chí hướng với tôi. Đã có những đêm nằm cảm thấy đau khổ, rớt nước mắt vì những nguy cơ dân tộc đang phải đối diện, đã cảm thấy bất lực vì mình không đóng góp được gì cho đất nước, tôi vẫn làm, vẫn nuôi hy vọng ngày nào đó có thể dùng chính những học thuyết Marx giúp đỡ đất nước tôi, đất nước của những con người cùng khổ, đất nước của nhân dân lao động và giai cấp vô sản. Học Marx là để thay đổi vận mệnh của chính mình và quốc gia mình, tôi không thích tham gia vào những nhóm ghét phản động hay nói xấu chế độ cụ vì tôi thấy việc này cần thiết hơn rất nhiều và quan trọng hơn rất nhiều là việc tranh cãi trên mạng. Hy vọng lại có thể tìm thấy những người nghiên cứu Marx đồng chí hướng và hy vọng Đảng và Nhà nước tạo thêm nhiều điều kiện cho những người nghiên cứu chủ nghĩa Marx như tôi hoặc bao nười khác có thể cùng nhau nghiên cứu, xây dựng đất nước.

Kỷ niệm 196 năm ngày sinh của Karl Marx, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới.

Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2014

                                                                                                    TTCS

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét